Tuần san

  


 

www.tinvui.org
bantreconggiao@yahoo.com                                                                        

 

TIN VUIFlowchart: Document: Số 
136
11/05/2008
        

 

 

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                               

 

 

 

NHƯ MỘT LỜI MỜI:

- Kính mời quý vị vào trang web www.tinvui.org để đọc các bài viết khác

- Mọi thư từ cộng tác góp ý và giúp đỡ xin quý vị gửi về địa chỉ E-mail :bantreconggiao@yahoo.com

- Ban biên tập Tin vui rất mong nhận được sự yêu thương đón nhận của quý vị độc gỉa gần xa

- Xin Thiên Chúa ban muôn ơn lành và đồng hành với quý vị trong hành trình đời sống Kitô hữu

MỤC LỤC

 SỐNG LỜI CHÚA..

Chúa Nhật Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.

PHÚC ÂM: Ga 20, 19-23.

BÌNH AN CHO ANH EM...

SỐNG LỜI CHÚA..

NGƯỜI CON CỦA MẸ MARIA..

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI.

Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã tiếp thủ lãnh Anh Giáo, Tổng Giám Mục Canterbury, Dr. Rowan Williams.

Một ngày làm việc điển hình của Đức Thánh Cha Bênêđíctô 16.

Ban Nhạc Trung Quốc hòa nhạc mừng Đức Thánh Cha.

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hàn Lâm Viện Tòa Thánh các khoa xã hội

Huấn Từ của ĐTC Bênêđictô XVI Dành Cho Giới Trẻ trong chuyến Tông du Hoa Kỳ.

Đức giáo hoàng sẽ dùng kỹ thuật số để nối kết với giới trẻ tại Sydney.

Các vị Giáo Hoàng với Đất Nước Hoa Kỳ.

Giáo Hoàng Đại Học Salêdiêng: Trao bằng tiến sĩ danh dự cho Đức Thượng Phụ Karekin II, Giáo Chủ Giáo Hội chính thống Armenia.

THANH HOÁ KHAI SINH HỘI THẦY THUỐC SAMARITANÔ..

Miền dòng Ngôi Lời Giuse được nâng lên thành Tỉnh dòng Ngôi Lời Việt Nam..

Bài phỏng vấn Linh mục Antôn Nguyễn Ngọc Sơn về những hoạt động bác ái xã hội

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO..

MẸ ƠI ĐOÁI THƯƠNG..

ĐỨC MẸ FATIMA..

“VỀ VỚI CHÍNH MÌNH”.

Sáng tạo trong đời sống.

BUỒN VUI NHỮNG CƠN SỐT !

CÂU CHUYỆN SUY NGẪM...

Tham ăn.

SỐNG CHỨNG NHÂN..

CHẤP NHẬN CHẾT ĐỂ CỨU SỐNG CON..

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH..

Người cha đang ở đâu.

Giáo Dục Giới Tính Tương quan giữa MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI VÀ GIÁO HỘI.

ĐỌC SÁCH..

MẦU NHIỆM MÂN CÔI.

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

Chúa Nhật Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

PHÚC ÂM: Ga 20, 19-23

"Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con!" Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại".

Đó là lời Chúa.

 

 

BÌNH AN CHO ANH EM

 

Xem ra có một cái gì đó vẫn chưa ổn đối với các tông đồ khi Chúa Giêsu bị bắt, bị treo trên thập giá và ngay cả khi Ngài đã sống lại ! Cái chưa ổn, đó là phong ba bão táp trong lòng các tông đồ. Thầy Giêsu, một Vị Thầy đầy uy quyền, làm nhiều phép lạ, đã bị giết chết. Làm sao các tông đồ lại có thể yên lòng, bình chân như vại được ru ? Các Ngài cứ tưởng Thầy Giêsu sẽ khôi phục lại Vương Quốc Israen để rồi các được nhiều đặc quyền đặc lợi. Nhưng đùng một cái, mọi sự đều biến tan theo mây khói. Các Ngài sợ hãi người Do Thái, ở im lìm trong một ngôi nhà tại Giêrusalem, các cửa đều đóng kín và rồi Chúa Phục Sinh hiện đến, thổi hơi ban Thánh Thần cho các Ngài. Cuộc đời các Ngài thay đổi từ đây…

 

CHÚA  PHỤC SINH HIỆN ĐẾN THỔI HƠI, TRAO BAN THÁNH THẦN VÀ 50 NGÀY SAU CHÚA THÁNH THẦN NGỰ ĐẾN KHIẾN CUỘC ĐỜI CÁC TÔNG ĐỒ HOÀN TOÀN ĐƯỢC ĐỔI MỚI :

 

Tin Mừng thánh Gioan thuật lại cách rất rõ rệt, sau khi hiện ra, trấn an các tông đồ trong ngôi nhà cửa kín then cài, Chúa Phục Sinh thổi hơi và ban Chúa Thánh Thần cho họ. Người nói:”Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” ( Ga 20,22 ).Tuy nhiên, năm mươi ngày sau khi Chúa sống lại, vào buổi sáng Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần xuống tràn ngập trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa.Các tông đồ bỗng thay đổi hẳn: sự nhút nhát, sợ hãi biến khỏi các ông. Các ông đã trở nên những chứng nhân hiên ngang rao giảng Tin Mừng. Bởi vì, các tông đồ đã nhận được sự bình an của Chúa Phục Sinh. Sự bình an thật trong tâm hồn. Bình an của Chúa Phục Sinh khiến các tông đồ có thể đối diện với khổ đau và đối diện ngay cả cái chết. Do đó, Chúa Phục Sinh đã truyền lệnh cho các Ngài:” Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” ( Ga  20, 21 ). Các tông đồ được Chúa sai đi .Các Ngài đã hiên ngang, kiên cường vì như bài sách công vụ thuật:” Chính trong ngày lễ trọng đại của người Do Thái, năm mươi ngày sau lễ Vượt Qua. Dịp lễ đặc biệt này qui tụ nhiều dân thuộc mọi thứ tiếng về Giêrusalem. Cũng trong ngày lễ vô cùng trọng đại này mà hoạt động của Chúa Thánh Thần được biểu lộ một các rõ ràng. Các tông đồ của Chúa Phục Sinh nói tiếng lạ và nhiều người thuộc mọi ngôn ngữ đều hiểu những gì các Ngài nói. Điều này chứng tỏ Chúa Thánh Thần tạo nên sự hiệp nhất chứ không như tình trạng con người muốn xây tháp Babel xưa. Còn thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô đã viết : “ Trong một Thánh Thần chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể cho dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, tất cả chúng ta đã uống trong một Thánh Thần “ ( 1 Co 12, 13 ). Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ, an ủi, soi sáng, ủy lạo vv…Chúa Thánh Thần còn được ví như :” Quả tim mới “ theo ngôn ngữ của ngôn sứ Edêkiên. Hội Thánh của Chúa ở trần gian trong niềm tin của mình Chúa Thánh Thần chính là nguồn sống mới, nguồn sống vô biên.

 

CÁC TÔNG CHỖI DẬY, RAO GIẢNG VÀ XÂY DỰNG MỘT NGÔI NHÀ CHUNG ĐẦY ẮP TÌNH THƯƠNG VÀ SỰ HIỆP NHẤT :

 

Được đầy tràn Thánh Thần, các tông đồ nhất nhất đã chỗi dậy, đã nắm lấy lịch sử của Hội Thánh. Các Ngài đã ra đi khắp tứ phương thiên hạ để đến với muôn dân, xây dựng Giáo Hội huynh đệ và hiệp nhất. Các Ngài đã để cho Chúa Thánh Thần mở toang tâm hồn,mở toang cõi lòng của họ, không còn nhát đảm sợ sệt, không còn xao xuyến hoang mang, nhưng các Ngài đã làm chứng cho Chúa Phục Sinh và giới thiệu Nước Trời cho nhiều người.Nhờ Chúa Thánh Thần nhờ ngọn lửa tình yêu, các tông dồ đã mau mắn, nhanh nhẹ ra đi làm chứng cho Chúa bất chấp hiểm nguy, bất chấp khó khăn cho dù phải hy sinh tới cả tính mạng của mình. Đi tới đâu, các tông đồ cũng xây dựng giáo đoàn, xây dựng Hội Thánh. Và Giáo Hội của Chúa luôn đầy ắp tình thương, luôn xây dựng nước trời. Lễ Hiện Xuống là một cuộc hiển linh, một sự bầy tỏ Hội Thánh cho thế gian. Công Đồng Vaticanô là một Lễ Hiện Xuống mới. Công Đồng Vaticanô tuyên bố:” Bằng việc liên hệ của mình với Đức Kitô, Giáo Hội là một loại bí tích hay là một dấu chỉ sự hiệp nhất thân mật với Thiên Chúa và hợp nhất mọi dân nước. Giáo Hội cũng là khí cụ kiến tạo nên một sự hiệp nhất như vậy”.

 

GIÁO HỘI MỜI GỌI CHÚNG TA LÃNH NHẬN CHÚA THÁNH THẦN:

 

Như các tông cùng với Mẹ Maria trng nhà Tiệc Ly cầu nguyện, chờ đón lãnh nhận Chúa Thánh Thần,mỗi người Kitô hữu chúng ta khi được lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức cũng đang được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng. Mọi Kitô hữu đã có Chúa Thánh Thần luôn được mời gọi làm chứng cho Chúa, bởi vì Hội Thánh là Hội Thánh truyền giáo. Làm chứng cho Chúa Phục Sinh có nghĩa là đến với những người nghèo, những người neo đơn, đau khổ, những người gặp khó khăn, những người tù bị tù đầy, những người bệnh hoạn tật nguyền. Làm chứng cho Chúa là mở tung cửa lòng của mình ra để cho Chúa ngự. Làm chứng cho Chúa là không nhát đảm chối Chúa khi gặp khó khăn, dám tuyên xưng niềm tin khi phải tuyên xưng niềm tin. Mỗi người Kitô hữu phải có thái độ sám hối, quay về như Phêrô :” Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy “. Làm chứng cho Chúa là xây dựng sự hiệp nhất giữa nhau, giữa các cộng đoàn, giữa các giáo xứ, giáo họ. Làm chứng cho Chúa là gieo vãi tình thương và bình an của Chúa cho nhiều người. Tình thương và bình an là hoa trái tốt lành của Chúa Thánh Thần. Sự bình an phát xuất bởi Chúa Phục Sinh và tình thương tự hiến do Chúa trao tặng cho nhân loại. Chúng ta cầu xin tái diễn một Lễ Hiện Xuống mới để mọi người hiểu biết sâu xa hơn về Giáo Hội của Chúa.

 

Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến! Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến.

 

Cách đây hơn 2.000 năm, Thánh Thần của Chúa Phục Sinh bắt đầu ngự xuống trong tâm hồn các tông đồ cách đầy quyền năng. Chúng ta mừng ngày lễ trọng đại này với tất cả niềm tin và tình thương. Xin Chúa Thánh Thần đến trên chúng ta và biến đổi tâm hồn chúng ta hầu chúng ta trở nên những chứng nhân kiên trung của Chúa Phục Sinh.

 

Lm.Giuse Nguyễn Hưng Lợi  DCCT

Mục lục

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

 

NGƯỜI CON CỦA MẸ MARIA

 

Tháng Năm là tháng dâng hoa kính Đức Mẹ. Tại Việt Nam tháng này gọi tắt là tháng hoa. Hiện nay tháng hoa đang làm đẹp Giáo Hội Việt Nam. Mọi nhà thờ lớn nhỏ đều tổ chức rước kiệu Đức Mẹ, dâng hoa lên Đức Mẹ theo những lễ nghi văn hoá truyền thống. Một bầu khí vui tươi, nô nức lan tràn khắp các họ đạo.

Những hình thức bề ngoài đó chỉ nói lên phần nào tâm tình của người con Đức Mẹ. Nhiều người đã vượt qua những hình thức bề ngoài đó, để đi sâu vào những mối dây liên hệ mật thiết hơn với Đức Mẹ.

Họ sống mật thiết hơn với Đức Mẹ bằng nhiều cách. Ở đây, tôi chỉ xin nêu lên vài cách sống nổi bật của họ.

1/ Sống thân phận cành của cây nho

Là người con của Đức Mẹ, họ thấy cách sống đẹp lòng Đức Mẹ nhất là sống mật thiết với Chúa Giêsu. Mật thiết như cành nho gắn vào cây nho.

Chúa Giêsu phán: "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho... Cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tiả, cho nó sinh nhiều hoa trái hơn... Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong các con. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho. Các con cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy...

"Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được" (Ga 15,1-5).

Khi sống thân phận cành của cây nho, theo lời Chúa phán trên đây, người con Đức Mẹ sẽ trải qua hai kinh nghiệm này: Một là mình là cành sẽ được cắt tiả, hai là mình là cành sẽ không ngừng kết hợp với cây nho là Đức Kitô.

Kinh nghiệm bị cắt tiả là những chuỗi dài đau đớn. Nhiều lá phải rụng, cành phải cắt bớt. Khi cành là con người chúng ta, nếu bị cắt tiả như thế, sẽ không tránh được đớn đau phần hồn phần xác. Những gì là cái tôi ích kỷ sẽ bị đào thải, để sự sống cuả Đức Kitô thay thế.

Lúc đó, chúng ta sẽ dần dần có một kinh nghiệm khác, đó là cùng với Đức Kitô vâng phục thánh ý Chúa Cha. "Lạy Cha, xin đừng theo ý con, nhưng xin theo ý Cha mọi đàng" (Mt 26,39). Kinh nghiệm vâng phục thánh ý Chúa nhiều khi cũng là một thứ thánh giá. Nhưng thánh giá đó được cảm thấy như một vinh dự: "Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô. Nơi Người ơn cứu độ của ta, sức sống của ta và sự phục sinh của ta".

Chính kinh nghiệm đó làm cho người con Đức Mẹ sống lời "xin vâng" của Đức Mẹ một cách hiếu thảo.

2/ Sống hạnh phúc người có Chúa ở cùng

Trước khi Chúa Giêsu lên trời, Người đã hứa với các môn đệ Người rằng: "Và đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20).

Kinh nghiệm về sự được Chúa ở cùng cũng là một thứ kinh nghiệm rất độc đáo.

Người con Đức Mẹ cảm thấy Chúa ở với mình bằng nhiều cách, nhưng bằng cách rất cụ thể này: Chúa cho họ cảm thấy mình yếu đuối, nhưng sự yếu đuối đó lại giúp cho họ bám chặt vào Chúa một cách khiêm nhường.

Trường hợp thánh Phaolô là một điển hình: "Sự thiện tôi muốn làm thì tôi không làm. Nhưng sự dữ tôi không muốn thì tôi lại làm... Tôi thật là người khốn nạn. Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (Rm 7,19-24).

Người con Đức Mẹ không nghĩ rằng: Họ có Chúa ở cùng có nghĩa là họ có quyền tự mãn như người sạch tội, nhưng chỉ có nghĩa là họ nhận thức mình bé mọn yếu hèn, nếu chẳng may vấp ngã thì luôn sám hối, nhờ cầm lấy tay Chúa mà đứng lên.

Sống ơn sám hối, giảng sự sám hối, đó là tư cách nổi bật của các thánh tông đồ, những người con đầu tiên của Đức Mẹ.

Khi sống ơn sám hối một cách đích thực, họ không giam cái nhìn của mình vào nhà tù tội lỗi của mình, nhưng họ nhìn lên tình yêu thương xót Chúa, nơi có ánh sáng, sự ủi an và tha thứ.

3/ Sống sứ vụ người loan báo Tin Mừng

Thánh sử Marcô nhấn mạnh một lời truyền của Chúa Giêsu, khi từ biệt các môn đệ: "Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15).

Những người con của Đức Mẹ Maria đã và đang loan báo Tin Mừng khắp nơi với nhiều cách phong phú. Nhưng cách loan báo sau đây được coi là đang phổ biến nhất và cũng hữu hiệu nhất, đó là loan báo bằng chính đời sống thường ngày của họ.

Đời sống thường ngày của họ cũng rất bình thường, nhưng vẫn có cái gì khác thường.

Người xung quanh dễ nhận thấy nơi người con Đức Mẹ có những giá trị linh thiêng âm thầm mà cao đẹp. Như sự sâu thẳm của đức khiêm nhường, lửa nồng nàn của đức ái quên mình, sự nhạy bén trước những gì là thánh ý Chúa. Nơi họ có tâm hồn của kinh tạ ơn "Magnificat", có tâm tình của sự vâng phục "Fiat", có sự hiến dâng của Đức Mẹ đứng dưới cây thánh giá Chúa Giêsu.

Gần họ, người ta sẽ nhận ra bầu khí cầu nguyện và mộ mến Lời Chúa.

Họ chuyển tải những giá trị đời đời qua ánh mắt, qua lời nói, qua các ứng xử.

Chỉ thế thôi, họ cũng đã là chứng nhân của Chúa và Đức Mẹ.

Tình hình hiện nay trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng có nhiều điều phải lo ngại. Kinh tế suy giảm, nạn đói bùng phát, thiên tai dồn dập, luân lý suy đồi... Người con Đức Mẹ nên ưu tiên để ý đến việc đổi mới tâm hồn mình, theo lời Đức Mẹ kêu gọi ở Lộ Đức và Fatima.

Sống lương thiện, sống thánh thiện, đó là dấu chỉ rất cần của người con Mẹ trong xã hội Việt Nam hôm nay.

Với chính chia sẻ này, hy vọng những ai muốn sống ơn gọi người con Đức Mẹ sẽ nhận ra ý Chúa, để đổi mới chính mình, góp phần đổi mới Hội Thánh và xã hội Việt Nam hôm nay.

 

ĐGM GB Bùi Tuần

Mục lục

 

 

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã tiếp thủ lãnh Anh Giáo, Tổng Giám Mục Canterbury, Dr. Rowan Williams.

Rome - CWNews) Hôm thứ Hai 5/5, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã tiếp thủ lãnh Anh Giáo, Tổng Giám Mục Canterbury, Dr. Rowan Williams.

Đây là cuộc gặp gỡ lần thứ hai giữa Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI và người đứng đầu khối Hiệp Thông Anh Giáo. Cuộc gặp gỡ này đã diễn ra trong bối cảnh của một thời kỳ khi quan hệ Công Giáo và Anh Giáo được đánh dấu bởi hàng loạt những căng thẳng. Mặc dù các mối liên hệ đại kết vẫn thân thiện, các nhà lãnh đạo tại Tòa Thánh đã cảnh cáo rằng việc Anh Giáo quyết định tấn phong Giám Mục cho phụ nữ và cho người đồng tính đang đóng lại cánh cửa cho khả năng hiệp thông giữa Rôma và Cantebury.

Hồi tháng Ba, Đức Hồng Y Jean-Louis Tauran, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Đối Thoại Đại Kết, đã công khai mạnh mẽ chỉ trích Tổng Giám Mục Anh Giáo Rowan Williams vì lời đề nghị của ông này đưa luật Hồi Giáo vào trong hệ thống luật pháp Anh quốc.

Cuộc tiếp kiến giữa Đức Thánh Cha và lãnh tụ Anh Giáo chỉ diễn ra trong 20’. Phát ngôn viên của Tổng Giám Mục Rowan Williams nói rằng cuộc thảo luận giữa Đức Thánh Cha và vị lãnh tụ Anh Giáo đã diễn ra thân ái và huynh đệ. Phát ngôn viên này nói rằng hai vị đã thảo luận về nhiều vấn đề từ những quan hệ giữa Kitô Giáo và Hồi Giáo tới chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Hoa Kỳ gần đây và vấn đề triển vọng tự do tôn giáo tại Hoa Lục.

Tòa Thánh đã không đưa ra thông cáo gì liên quan đến cuộc gặp gỡ này.

Trước cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha, Dr. Williams nói với Radio Vatican rằng ông sẽ tường trình với Đức Thánh Cha về những kế hoạch liên quan đến hội nghị Lambeth. Đây là hội nghị được diễn ra 10 năm một lần quy tụ các nhà lãnh đạo Anh Giáo trên toàn thế giới. Hội nghị này được tiên báo sẽ cho thấy những hố sâu ngăn cách không hàn gắn được trong khối Hiệp Thông Anh Giáo. Ngay trong cuộc phỏng vấn với đài Vatican, vị lãnh đạo Anh Giáo thừa nhận rằng “đây là một thời kỳ khó khăn chưa từng có” cho việc lãnh đạo Anh Giáo.

Tổng Giám Mục Anh Giáo thành Canterbury đang ở Ý để tham dự hội nghị “Bắc những Nhịp Cầu” do Đại Học Georgetown bảo trợ nhằm đưa các nhà lãnh đạo Kitô Giáo và Hồi Giáo ngồi lại với nhau. Ông cũng đến Rôma để bổ nhiệm giám đốc mới cho Trung Tâm Anh Giáo tại Rôma.

Một ngày làm việc điển hình của Đức Thánh Cha Bênêđíctô 16

Phong cách làm việc của Đức Thánh Cha Bênêđíctô 16 thì êm đềm và cần mẫn hơn vị Tiền Nhiệm của Ngài. Dẫu vậy, không có một giây phút nào trôi qua mà không được hoạch định cả!

Cùng với ký giả Isabelle de Gaulmyn, chúng ta hãy cùng nhau - thử tìm hiểu xem - một ngày làm việc điển hình của Đức Thánh Cha là như thế nào nhé!

Sáng Sớm 5:30 Sáng:

Tại nơi Trung Tâm của Quãng Trường Thánh Phêrô được đánh dấu bởi một cái tháp lớn khổng lồ và xưa cổ, vào giờ này thì hoàn toàn vắng vẽ và thinh lặng. Chẳng bao lâu, thì các du khách sẽ lần lượt đổ về Quãng Trường thông qua các hàng cột nổi tiếng của Bernini. Thế nhưng vào lúc này, chẳng có cái gì là được nhìn thấy cả, ngoại trừ bóng dáng thoáng qua của một con mèo cố lướt qua các hàng cột ở giữa những tản đá lớn. Nhìn lên cao, trong một căn phòng nằm ở bên góc của lầu thứ 3 của Dinh Thự Tông Đồ (Apostolic Palace), ánh sáng đèn được bật lên, khi này Đức Thánh Cha đã thức giấc rồi.

7:00 Giờ Sáng:

ĐTC cử hành Thánh Lễ trong Nhà Nguyện riêng của Ngài, Nhà Nguyện mà 2 vị Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị và Phaolô Đệ Lục vẫn thường hay cử hành Thánh Lễ và cầu nguyện.

Đối với ĐTC Bênêđíctô 16 thì Thánh Lễ mà Ngài cử hành hoàn toàn có tính cách riêng tư và thân mật hơn, so với vị Tiền Nhiệm của Ngài, khi mà trong Thánh Lễ đó gần hơn phân nửa là số khách được mời để dự Thánh Lễ ban sáng.

Hiện diện trong Thánh Lễ do Đức Thánh Cha Bênêđíctô 16 cử hành có 4 người phụ nữ chịu trách nhiệm chăm sóc cho toàn khu Dinh Thự Tông Đồ đó là: Carmela, Emanuela, Loredana và Christina - 4 người phụ nữ này thuộc một Tu Hội Thánh Hiến dành cho Giáo Dân có tên là Hiệp Thông và Giải Phóng.

Cũng hiện diện trong Thánh Lễ đó có 2 vị Thư Ký của ĐTC đó là Đức Ông Georg Gaenswein (người Bavaria cùng quê với ĐTC) và Đức Ông Alfred Zuered (người gốc Malta).

Đức Ông Gaenswein, vị thư ký đầu tiên của ĐTC, đã luôn ở bên cạnh ĐTC khi Ngài hãy còn là Đức Hồng Y Ratzinger. Đức Ông 50 tuổi với cặp mắt như đá khi nhìn có thể thấu suốt, với thân hình như là một nhà vô địch môn trượt tuyết, và một nụ cười tươi mở giống như các diễn viên điện ảnh nổi tiếng. Không còn nghi ngờ gì nữa, Đức Ông là một người rất trầm lặng và kín tiếng và luôn cần mẫn theo dõi mọi chuyển động của ĐTC để bảo chắc rằng không có chuyện gì trục trặc bất ngờ xảy ra đối với Ngài.

ĐTC di chuyển tới đâu thì "Don Georgio" (biệt hiệu dành cho Đức Ông Gaenswein) lặng lẽ và nhanh nhẩu đi theo và lẵng lặng đứng đằng sau Ngài, nhằm bảo đảm khi Ngài chuẩn bị đọc diễn văn, thì kính đeo của Ngài luôn có sẳn.

8:30 Sáng:

ĐTC ngồi tại bàn làm việc trong văn phòng làm việc riêng tư của Ngài. Nếu thời tiết ngày đó tốt, thì cánh cửa sổ nhìn ra Quãng Trường Thánh Phêrô, được mở ra. Chính từ cửa sổ này mà ĐTC xuất hiện vào mỗi buổi trưa Chủ Nhật để đọc Kinh Truyền Tin. Một trong hai vị thư ký mang đến cho Ngài các hồ sơ, và một bản tổng hợp tất cả các loại tin tức từ các báo chí quốc tế. Hai vị thư ký này cũng đưa ra cho Ngài lịch trình làm việc của ngày, với đầy đủ thông tin về những ai mà Ngài sẽ gặp, và tất cả các chủ đề quan trọng thiết yếu mà Ngài sẽ cần đề cập đến. Trong văn phòng làm việc của ĐTC, có một bức tượng của Thánh Giuse, được trân trọng đặt ngay bên điện thoại, và rất nhiều kệ sách làm thành một thư viện riêng ở phía sau dành cho ĐTC với khoảng hơn 20,000 chủ đề khác nhau.

Một thứ sẽ không bao giờ được tìm thấy trong văn phòng làm việc của ĐTC, dẫu cho lòng ưu ái mà Ngài dành cho chúng, đó là các con mèo - không có con mèo nào chạy nhảy ở phía dưới bàn hay uốn mình nằm ngủ theo dọc các hành lang.

Từ 11:00 Giờ Sáng đến 1:00 Giờ Chiều:

ĐTC đi thang máy riêng, đến khu căn hộ ở lầu 2 của Dinh Thự Tông Đồ là nơi mà Ngài sẽ tiếp kiến các vị khách. Tại đây Ngài chào đón các vị Nguyên Thủ Quốc Gia, các vị Giám Mục, và các nhân vật khác có trong danh sách khách mà Ngài sẽ gặp trong ngày, vốn được điều phối rất rõ ràng với vị Tổng Trưởng của Pontifical Household. Sau đó Ngài tiếp khách ở thư viện.

1:30 Trưa/Chiều:

ĐTC dùng bữa trưa ở lầu 3. Thức ăn mà Ngài dùng rất là đơn giản - chủ yếu là các món ăn của Ý, và không mặn lắm. Ngài uống nước cam, và thỉnh thoảng uống một chút rượu khi Ngài có khách. Đây cũng chính là thời gian trong ngày mà Ngài sẽ thư giãn bằng cách chơi nhạc Mozart trên chiếc piano có trong phòng ăn. Trước khi nghỉ trưa, Ngài đi bộ dọc các hành lang, hay ẩn mình vào các cây chanh và các cây cam, rồi thưởng ngoạn phong cảnh đẹp đẽ của Castel St. Angelo và Quãng Trường Thánh Phêrô.

3:30 Chiều:

ĐTC trở lại văn phòng làm việc của Ngài, và tự Ngài ghi chú và sửa chửa các bản văn và các bài diễn văn được nộp cho Ngài để Ngài chấp thuận bằng những dòng chữ viết tay chằn chịt.

Từ 4:00 đến 4:45 Chiều:

Nếu vào giờ nay mùa Đông, hay từ khoảng 6:45 đến 7:30 tối vào mùa Hè, thì ĐTC sẽ đi bộ trong các khu vườn của Vaticăn cùng với hai vị thư ký của Ngài. Khi ĐTC có mặt ở trong các khu vườn, thì cảnh sát sẽ ngăn chặn các khu vực chung quanh lại.

6:00 Chiều:

 

ĐTC tiếp kiến những vị cố vấn chính của Ngài trong văn phòng làm việc riêng của Ngài. Các vị đó được Ngài tiếp kiến theo đúng tuần tự của nghi thức và theo một trật tự đã được thiết lập sẵn. Đầu tiên là Đức Hồng Y Tarcisio Berton, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, được tháp tùng bởi người được chỉ định của ĐTC. Rồi sau đó đến các vị khác như: vị Thư Ký đặc trách các mối quan hệ ngoại giao với các quốc gia, hay vị Tổng Trưởng Thánh Bộ đặc trách các Giám Mục, và vị Tổng Trưởng đặc trách Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, vốn là 2 Bộ chính của Tòa Thánh, rồi đến các vị khác.. ..


7:30 Tối:


Sau bữa tối, ĐTC ngồi trên ghế sa lông để xem tin tức trên truyền hình. Sau đó, Ngài cầu nguyện trong Nhà Nguyện riêng, rồi vào phòng ngủ của Ngài. Ở phía dưới, các nhân viên quét rác của thành phố vừa đến để lau chùi và dọn dẹp cả Quãng Trường. Tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, chuông lúc này đổ 11 giờ tối rồi, thế nhưng vào lúc này thì ĐTC đã yên giấc từ rất lâu rồi!


TB: Isabella de Gaulmyn là Ký Giả ở Rôma viết cho tờ báo La Croix bằng Pháp Ngữ

Mục lục

 

Ban Nhạc Trung Quốc hòa nhạc mừng Đức Thánh Cha


Vatican -- Lúc 6 giờ chiều ngày 7-5-2008, Ban nhạc Bắc Kinh thuộc hàng nổi tiếng nhất của Trung Quốc với sự cộng tác của Ca đoàn Nhà Hát Thượng Hải đã trình diễn trường ca Requiem của nhạc sư Mozart mừng ĐTC tại Đại Thính Đường Phaolô 6 ở Nội Thành Vatican.

 

Ban nhạc thật hùng hậu này được thành lập năm 2000 và đến Âu Châu để lưu diễn. Họ đề nghị đến Vatican trình diễn để mừng ĐTC.


Mở đầu, Nhạc Trưởng Dư Long đã ngỏ lời chào mừng ĐTC và mọi người. Ông gọi đây thật là ”một giờ phút lịch sử sẽ ở lại lâu dài trong ký ức của chúng tôi. Trường ca được trình diễn tại thành của ĐGH phản ánh giá trị của mỗi người nam nữ trên thế giới, trong tinh thần hòa bình và yêu thương.”


Khi ban nhạc và ca đoàn kết thúc sau gần 1 tiếng đồng hồ trình diễn, lối 5 ngàn người hiện diện, trong đó có ĐHY Bertone, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã nhiệt liệt vỗ tay tán thưởng thật lâu.


Ngỏ lời trong dịp này, ĐTC đã ca ngợi tài ba và cám ơn ban nhạc Bắc Kinh và Ca đoàn. Ngài nói: ”Trong một đoàn với nhiều nghệ sĩ tài ba như vậy, chúng ta có thể thấy đây là đại diện của đại truyền thống văn hóa và âm nhạc của Trung Quốc, và cuộc trình diễn này giúp chúng ta hiểu rõ hơn lịch sử của một dân tộc, với những giá trị và những khát vọng rất cao thượng. Tôi thành tâm cám ơn vì món quà này!”

ĐTC cũng nhận xét rằng: ”Ban nhạc và ca đoàn của các bạn quan tâm tới âm nhạc tôn giáo của Âu Châu. Điều này chứng tỏ có thể thưởng thức và quí chuộng những biểu lộ tinh thần cao quí như bài Requiem của Mozart mà chúng ta vừa nghe, chính vì âm nhạc biểu lộ tâm tình phổ quát của con người, kể cả tâm tình tôn giáo, vượt lên trên những biên giới văn hóa của mỗi người.”


ĐTC gửi lời chào toàn thể nhân dân Trung Quốc, đặc biệt là các tín hữu của Chúa Kitô có liên hệ tinh thần với Người Kế Vị Thánh Phêrô. ”Bài Requiem nảy sinh từ niềm tin ấy, như một kinh nguyện dâng lên Thiên Chúa vị thẩm phán công chính và từ bi, và chính vì thế mà bản này đánh động tâm hồn mọi người, và được coi như biểu lộ một thuyết nhân bản phổ quát. Sau cùng, qua quí vị, tôi gửi lời chào toàn thể nhân dân Trung Quốc, với thế vận hội Olympic sắp tới, đang chuẩn bị sống một biến cố rất có giá trị đối với toàn thể nhân loại”.


Ban nhạc và ca đoàn còn trình diễn một bài dân ca truyền thống của Trung Quốc trước khi một số đại diện của họ được ĐTC bắt tay chào thăm.


G. Trần Đức Anh, OP


Mục lục

 

 

Đức Thánh Cha tiếp kiến Hàn Lâm Viện Tòa Thánh các khoa xã hội


Vatican -- Sáng 3-5-2008, ĐTC Biển Đức 16 đã tiếp kiến 50 tham dự viên khóa họp toàn thể lần thứ 14 của Hàn Lâm Viện Tòa Thánh về các khoa xã hội.


Chủ đề khóa họp tiến hành từ mùng 2 đến 6-5-2008 là: ”Theo đuổi công ích: tình liên đới và nguyên tắc phụ đới có thể hoạt động với nhau như thế nào?”


Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, ĐTC ghi nhận rằng khi chọn chủ đề này, các thành viên Hàn lâm viện Tòa Thánh về các khoa xã hội đã quyết định cứu xét sự hỗ tương giữa 4 nguyên tắc cơ bản trong giáo huấn xã hội Công Giáo, đó là phẩm giá con người, công ích, sự phụ đới (subsidiarity) và liên đới (Compendium 160-163). Trọng tâm vấn đề ở đây là làm sao để nguyên tắc liên đới và phụ đới có thể tiến hành chung với nhau trong việc theo đuổi công ích theo thể thức không những tôn trọng phẩm giá con người, nhưng còn làm cho phẩm giá này được triển nở”.


ĐTC đặc biệt kêu gọi các tham dự viên cứu xét các nguyên tắc liên đới và phụ đới dưới ánh sáng Tin Mừng. Các nguyên tắc này không những chỉ có chiều ngang nhưng còn chủ yếu có chiều dọc nữa. Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy làm cho người khác những gì chúng ta muốn họ làm cho chúng ta (cf Lc 6,31); hãy yêu thương tha nhân như chính mình (cf Mt 22,35). Những luật này được Đấng Tạo Hóa ghi khắc trong chính bản tính con người (Deus Caritas est,31).


ĐTC giải thích:


”Chúa Giêsu dạy rằng tình yêu thương ấy kêu gọi chúng ta hiến thân vì thiện ích cảu tha nhân (cf Jn 15,12-13). Theo nghĩa đó, tình liên đới chân thực, tuy bắt đầu với sự nhìn nhận giá trị bình đẳng của tha nhân, nhưng nó chỉ đạt tới sự viên mãn khi tôi thực sự muốn đăt mình phục vụ người khác (cf Eph. 6,21). Chiều dọc của tình liên đới hệ tại điều này là tôi được thúc đẩy hạ mình xuống để phục vụ nhu cầu của tha nhân (Jn 13,14-15), như Chúa Giêsu đã hạ mình xuống để cho con người được chia sẻ đời sống thần thiêng của ngài với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh”.


Và ĐTC kết luận rằng: ”Tôi khuyến khích anh chị em để ý tới cả hai chiều kích này ”dọc và ngang” của nguyên tắc liên đới và phụ đới. Như thế anh chị em có thể đề nghị những phương thế hữu hiệu để giải quyết nhiều vấn đề đang đè nặng trên nhân loại vào đầu ngàn năm thứ ba này, trong khi anh chị em làm chứng về chỗ đứng tối thượng của tình yêu, vượt lên trên và kiện toàn công lý”.


Trong cuộc họp báo giới thiệu khóa họp này, Đức Ông Marcelo Sanchez Sorondo, Chưởng ấn Hàn Lâm Viện Tòa Thánh về các khoa xã hội, nói rằng:

”Xã hội loài người không thể bị thu gọn vào luật thị trường. Con người có những giá trị khác để xây dựng công ích. Cần phải ra khỏi xã hội hoàn cầu hóa hiện nay để các của cải không nằm trong tay những người giầu nhất, nhưng cũng đi tới những người nghèo nhất nữa”.


Trong khóa họp, các viện sĩ bàn về những hình thức kinh tế liên đới và phụ đới, những sáng kiến giáo dục tại các nước đang phát triển, các quan hệ Nhà Nước / gia đình, các tiểu tín dụng, v.v...

Mục lục

 

Huấn Từ của ĐTC Bênêđictô XVI Dành Cho Giới Trẻ trong chuyến Tông du Hoa Kỳ

Dưới đây là bản dịch huấn từ của ĐTC nói với khoảng 26,000 người trẻ tại Chủng Viện Thánh Giuse, Yonkers, NY, ngày 19 tháng 4, năm 2007.

Kính thưa Đức Hồng Y,

Quý hiền huynh Giám Mục,

Các bạn trẻ thân mến,

“Hãy rao giảng Đức Kitô… và luôn luôn sẵn sàng để trả lời cho những người hỏi về lý do của niềm hy vọng trong anh em” (1 Phr 3:15). Với những lời này từ Thư Thứ Nhất của Thánh Phêrô, Cha thân chào chúng con với niềm quý yêu tận đáy lòng. Tôi xin cám ơn Đức Hồng Y Egan về những lời chào mừng ưu ái và Cha cũng cám ơn các đại diện được chúng con chọn để đón chào Cha. Tôi cũng xin chào mừng và cảm tạ Đức Cha Walsh, Giám Đốc Chủng Viện Thánh Giuse, các nhân viên và các chủng sinh.

Các bạn trẻ thân mến, Cha rất vui được dịp nói chuyện với chúng con. Làm ơn gửi lời chào mừng nồng nhiệt của Cha đến các phần tử trong gia đình chúng con, và đến các thày cô và nhân viện của các trường học và các đại học mà chúng con đang theo học. Cha biết rằng nhiều người đã làm việc vất vả để cuộc họp mặt của chúng ta hôm nay có thể xảy ra. Cha cám ơn họ nhiều nhất. Cha cũng đón nhận việc chúng con hát mừng sinh nhật Cha! Cám ơn rất nhiều vì cử chỉ đầy cảm động này; Cha cho tất cả chúng con điểm “A+” về việc chúng con phát âm tiếng Đức! Chiều nay Cha muốn chia sẻ với chúng con một vài tư tưởng về làm môn đệ Đức Chúa Giêsu Kitô – khi đi theo bước chân Chúa, thì đời sống của chính chúng ta trở thành một cuộc hành trình hy vọng.

Trước mặt chúng con là hình ảnh của sáu người nam và nữ đã lớn lên để sống cuộc đời phi thường. Hội Thánh tôn kính họ là bậc Đáng Kính, Á Thánh và Thánh: mỗi người trong họ đáp lại lời mời gọi của Chúa sống đời bác ái, và họ đều phục vụ Chúa ở đây, trong các ngõ hẻm, đường phố và ngoại ô New York. Cha ngạc nhiên về sự đa dạng của những người trong họ: nghèo và giàu, giáo dân nam nữ -- một người là một mệnh phụ và một người mẹ giàu có – các linh mục và các nữ tu, người di cư từ một phương trờ xa thẳm, ái nữ của một người cha là chiến sĩ Mohawk và mẹ là người Algonquin, người khác là người nô lệ Haiti, và một nhà học thức người Cuba.

Thánh Elizabeth Ann Seton, Thánh Frances Xavier Cabrini, Thánh Gioan Newman, Á Thánh Kateri Tekakwitha, Đáng Kính Pierre Toussaint, và Cha Felix Verala: bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể được kể vào số những người trong các Ngài, bởi vì không có kiểu mẫu nào trong nhóm này, không có một khuôn nào duy nhất. Nhưng nếu nhìn kỹ lại thì chúng ta thấy có những yếu tố chung. Được đốt cháy bởi lòng yêu mến Chúa Giêsu, đời sống của các Ngài trở thành những cuộc hành trình hy vọng phi thường. Đối với một số trong các Ngài, cuộc hành trình này là bỏ nhà cửa và lên tàu làm một cuộc du hành dài hàng ngàn bộ. Đối với mỗi ngưởi, đó là một hành động phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa, với một niềm xác tín rằng Người là cùng đích của mọi cuộc du hành. Tất cả đều mở rộng đôi tay của niềm hy vọng để giúp đỡ những người họ gặp trên đường, và thường đánh thức đời sống đức tin trong họ. Qua các viện mồ côi, trường học và bệnh viện, bằng cách làm bạn với những người nghèo, người bệnh và những người sống ngoài lề xã hội, và bằng chứng tá hùng hồn thể hiện qua cách sống khiêm nhường theo bước chân của Chúa Giêsu, sáu vị này đã mở rộng cánh cửa Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến cho không biết bao nhiêu cá nhân, kể cả tiền nhân của chính chúng con.

Và ngày nay thì sao? Ai đang làm chứng cho Tin Mừng của Chúa Giêsu trên đường phố New York, trong các xóm nhà lá ở các thành phố lớn, ở những nơi mà người trẻ tụ tập để tìm người nào mà các em có thể tin tưởng được? Thiên Chúa chính là nguyên thủy và là cùng đích của chúng ta, và Chúa Giêsu là đường. Con đường của cuộc hành trình ấy có quanh co không? Có giống như đã xảy ra cho các Thánh của chúng ta không? Qua các niềm vui và thử thách của đời sống thường nhật: trong gia đình của chúng con, ở trường học hay đại học, trong những sinh hoạt giải trí, và trong các cộng đoàn giáo xứ. Tất cả những nơi này đều được đánh dấu bằng nền văn hóa mà chúng con đang sinh trưởng. Là những người trẻ Hoa Kỳ, chúng con có nhiều cơ hội để phát triển con người, và được nuôi dưỡng với ý thức quảng đại, phục vụ và thẳng thắn. Nhưng chúng con không cần Cha phải bảo chúng con rằng cũng có nhiều khó khăn: các hoạt động và tinh thần âm ỉ hy vọng, những con đường xem ra đưa đến hạnh phúc và sung mãn, nhưng trên thực tế chỉ đưa đến bối rối và sợ hãi.

Chính thời niên thiếu Cha đã bị băng hoại bởi một chế độ hung ác và nghĩ ràng nó có tất cả mọi câu trả lời; các ảnh hưởng của nó gia tăng -- thấm nhiễm các trường học và các cơ quan dân sự, cũng như chính trị và ngay cả tôn giáo -- trước khi người ta hoàn toàn nhận ra nó là một quái vật nguyên hình. Nó trục xuất Thiên Chúa và như thế nó trở nên không hiểu được những gì là chân thật và tốt lành. Nhiều ông bà và ông bà cố của chúng con sẽ còn phải kể lại chi tiết những sự tàn phá mà nó đem lại. Thật sự, một số người trong họ sang Mỹ Châu chính là để trốn những điều kinh hoàng như thế.

Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa vì ngày nay nhiều người trong thế hệ chúng con vui hưởng sự tự do được phát sinh qua việc mở rộng dân chủ và tôn trọng nhân quyền. Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa vì những người đã cố gắng để bảo đảm rằng cho chúng con lớn lên trong một bầu khí mà trong đó những gì là chân thiện mỹ được nuôi dưỡng: đó là cha mẹ, ông bà, các thầy giáo và các linh mục của chúng con, các nhà lãnh đạo dân sự đang tìm kiếm điều gì là phải lẽ và công bình.

Tuy nhiên, khả năng phá hủy vẫn tồn tại. nghĩ cách khác là tự lừa dối mình. Nhưng nó không bao giờ chiến thắng; nó bị đánh bại. Đó là điểm chính yếu của niềm hy vọng nói rõ tính chất của chúng ta là Kitô hữu; và Hội Thánh nhắc lại điều này một cách xúc động nhất trong Tam Nhật Phục Sinh và cử hành nó với một niềm vui khôn tả trong mùa Phục Sinh! Đấng chỉ cho chúng ta con đường vượt trên cái chết cũng là Đấng chỉ cho chúng ta làm thế nào để khắc phục được sự hủy diệt và lo sợ: như thế Chính Chúa Giêsu mới thật là Thầy dạy về sự sống (x. Spe Salve, 6). Cái chết và sự phục sinh của Người có nghĩa là chúng ta có thể thưa với Chúa Cha “Ngài đã phục hồi sự sống của chúng con!” (Lời Nguyện sau Hiệp Lễ, Thứ Sáu Tuần Thánh). Và như thế, mời vài tuần qua, trong Phụng Vụ tuyệt mỹ Lễ Vọng Phục Sinh, chúng ta kêu gào cùng Thiên Chúa cho thế gian không phải vì tuyệt vọng hay sợ hãi, nhưng vì một niềm tin tưởng đầy hy vọng: Xin xua tan bóng tối trong tâm hồn chúng con! Xin xua tan bóng tối trong tâm trí chúng con! (x. Lời Nguyện khi Thắp Nến Phục Sinh).

Vậy bóng tối là gì? Điều gì xảy ra khi người ta, nhất là những người cô thế nhất, gặp phải một nắm tay đàn áp siết chặt hay thao tác thay vì bàn tay hy vọng? Một số thí dụ thứ nhất liên quan đến con tim. Ở đây, những mơ mộng và ao ước mà người trẻ đang theo đuổi có thể bị bể nát hay phá hủy dễ dàng. Cha đang nghĩ đến những người bị ảnh hưởng bởi ma túy và nghiện ngập, vô gia cư và nghèo khổ, bị kỷ thị chủng tộc, bạo lực, và hạ cấp -- nhất là các trẻ nữ và phụ nữ. Trong khi căn nguyên của những vấn đề này thật phức tạp, tất cả đều có chung một thái độ tâm trí bị đầu độc làm cho con người bị đối xử chỉ như những vật dụng: một sự chai đá trong tâm hồn xảy ra, lúc đầu thì không quan tâm đến, rồi sau đó thì chế nhạo, phẩm giá mà Thiên Chúa ban cho mọi người. Những thảm cánh như thế cũng chỉ đến điều có thể đã có, và có thể có, là có những bàn tay khác – bàn tay của chúng con – giơ ra. Cha khuyến khích chúng con mời những người khác, nhất là những người cô thế và vô tội, cùng đi với chúng con dọc theo con đường tốt lành và hy vọng.

Vùng bóng tối thứ hai -- là những gì ảnh hưởng đến tâm trí -- thường xảy ra mà chúng ta không biết, và chính vì lý do này mà nó đặc biệt nguy hiểm. Việc bó méo sự thật làm chúng ta có cái nhìn méo mó về thực trạng, làm cho trí tưởng tượng và khát vọng của chúng ta bị lu mờ. Cha đã nói về nhiều tự do mà chúng con may mắn đủ để được hưởng. Điều quan trọng căn bản của tự do cần phải được gìn giữ cách nghiêm ngặt. Vì thế chẳng ngạc nhiên gì khi có nhiều cá nhân và phe nhóm đòi hỏi tự do cách um xùm trong diễn đàn công cộng. Phải, tự do là một giá trị mỏng dòn. Nó có thể bị hiểu lầm và bị lạm dụng để rồi thay vì đưa đến hạnh phúc mà mọi người mong đợi thì lại đưa đến một vũ đài tối tăm của sự thao túng mà trên đó sự hiểu biết của chúng ta về chính mình và thế giới bị mù mở đi, hoặc bị bóp méo bởi những người có một mưu đồ thầm kín.

Các con có thường xuyên thấy người ta đòi hỏi tự do mà không đề cập đến chân lý và con người không? Có một số người ngày nay lý luận rằng tôn trọng tự do cá nhân biến việc tìm chân lý thành sai, kể cả chân lý về những gì tốt đẹp. Đối với một vài giới người nói đến chân lý được coi là tranh luận hoặc chia rẽ, và tốt nhất là giữ nó trong phạm vi cá nhân. Và thay vì chân lý – hay nói đúng hơn là khi vắng mặt nó -- người ta phổ biến một tư tưởng cho là điều gì cũng có giá trị, là để bảo đảm tự do và giải phóng lương tâm. Điều này chúng ta gọi là thuyết tương đối. Nhưng có một sự “tự do” mà trong đó bất kể chân lý, với mục đích gì, chẳng lẽ là để theo đuổi điều sai quấy sao? Có bao nhiêu người trẻ đã được một bàn tay nhân danh tự do giúp đỡ hoặc nếm thử đã đưa các em đến nghiện ngập, đến u mê về luân lý và trí thông minh, để bị tổn thương, mất tự trọng, hay thất vọng trầm trọng và đau buồn đến mức tự vận? Các bạn thân mến, chân lý không phải là một trò lừa bịp. Nó cũng không đơn thuần chỉ là một mớ luật lệ. Nó là một sự khám phá ra một Đấng không bao giờ làm cho chúng ta thất vọng; một Đấng mà chúng ta luôn luôn có thể tin cậy. Trong khi tìm chân lý, chúng ta đi đến việc sống nhờ điều chúng ta tin bởi vì rốt cuộc chân lý là một con người: Đức Chúa Giêsu Kitô. Đó là lý do tại sao sự tự do chân chính không phải là tẩy chay, mà là tham gia; không có gì hơn là quên mình đi và để cho mình được thu hút vào chính con người Đức Kitô cho tha nhân (x. Spe Salvi, 28).

Như thế, là những tín hữu, chúng ta có thể giúp đỡ những người khác cách nào để họ đi theo đường tự do là con đường đem lại sự vui thoả và hạnh phúc vĩnh cửu? Chúng ta hãy trở lại với các Thánh một lần nữa. Việc làm nhân chứng của các Ngài thật sự giải thoát người khác khỏi tối tăm trong tâm hồn và tâm trí như thế nào? Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời trong lõi tủy của Đức Tin của các Ngài; cũng là lõi tủy Đức Tin của chúng ta. Việc Nhập Thể, sự sinh ra của Chúa Giêsu, nói cho chúng ta rằng quả thật Thiên Chúa tìm thấy một chỗ ở giữa chúng ta. Mặc dầu các nhà trọ không còn chỗ, Người vào qua hang lừa bò, và có những người thấy ánh sáng của Người. Họ nhận chân được thế giới tối tăm khép kín của Hêrôđê, và thay vào đó, họ đi theo ngôi sao dẫn đường sáng lạn trong trời đêm, Và điều gì tỏa sáng? Ở đây chúng con có thể nhớ lại lời cầu nguyện được thốt ra hầu hết đêm thánh Phục Sinh” “Lạy Cha chúng con thông phần vào ánh sáng của vinh quang Cha nhờ Con Cha là ánh sáng trần gia… xin lấy hy vọng của Cha mà đốt lòng chúng con!” (Làm Phép Lửa). Và như thế, trong cuộc rước trọng thể cùng với cây nến được đốt cháy chúng ta chuyền ánh sáng của Đức Kitô cho nhau. Đây là ánh sáng “xua đuổi tội ác, tẩy trừ bợn nhơ, cho kẻ tội lỗi được sạch trong, cho người ưu phiển được mừng vui, phá tan hận thù oán ghét, mang lại hòa thuận yêu thương, khuất phục mọi quyền bính trên thế gian” (Exsultet - Mừng Vui Lên). Đây là ánh sáng của Đức Kitô đang hoạt động. Đây là con đường của các Thánh. Nó là một viễn tượng hy vọng huy hoàng – Ánh sáng của Đức Kitô ra hiệu cho chúng con trở thành ngôi sao dẫn đường cho người khác, bằng cách đi theo đường tha thứ, hòa giải, khiêm nhường, vui mừng và hy vọng của Đức Kitô.

Tuy nhiên đôi khi chúng con bị cám dỗ để khép mình lại trong vỏ sò, nghi ngờ sức mạnh của những tia sáng của Đức Kitô, và giới hạn chân trời hy vọng. Các con hãy can đảm lên! Nhìn thẳng vào các Thánh của chúng ta. Sự đa dạng về kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa của các Ngài thúc giục chúng ta tái khám phá ra chiều dài và chiều sâu của Kitô giáo. Hãy để trí tưởng tượng của chúng con tự do bay bổng theo chiều dài vô tận của chân trời làm môn đệ Đức Kitô. Đôi khi người ta nhìn chúng ta như những người chỉ nói đến cấm đoán. Không có gì sai lầm hơn điều ấy! Làm môn đệ thực sự của Đức Kitô được đánh dấu bởi ý thức về việc kỳ diệu. Chúng ta đứng trước Vị Thiên Chúa mà chúng ta biết và yêu mến như bạn hữu, sự bao la của công trình tạo dựng của Ngài, và vẻ đẹp của Đức Tin Kitô của chúng ta.

Các bạn thân mến, như thế, gương của các Thánh mời gọi chúng ta suy xét về bốn bình diện quan trọng của kho tàng Đức Tin của chúng ta: cầu nguyện riêng và thinh lặng, cầu nguyện trong Phụng Vụ, bác ái trong hành động, và ơn gọi.

Điều quan trọng nhất là chúng con phát huy sự liên hệ của chúng con với Thiên Chúa. Sự liên hệ ấy được bày tỏ trong việc cầu nguyên. Tự bản tính của Ngài, Thiên Chúa nói, nghe, và trả lời. Thực thế, Thánh Phaolô nhắc nhở cho chúng ta rằng: “Hãy cầu nguyện liên lỉ” (1 Thess 5:17). Thay vì quy hướng về minh hay chạy trốn những thăng trầm của cuộc sống, nhờ cầu nguyên chúng ta hướng về Thiên Chúa, và nhờ Ngài chúng ta hướng về nhau, kể cả những người sống bên lề xã hội và những người theo những con đường khác không phải là đường của Thiên Chúa (x. Spe Salve, 33). Như các Thánh dạy chúng ta cách linh hoạt, cầu nguyện trở thành hy vọng trong hành động. Đức Kitô luôn luôn là bạn đường của các Ngài. Các Ngài đã đàm đạo với Người ở mỗi chặng đường của cuộc hành trình phục vụ tha nhân.

Còn một bình diện khác của cầu nguyện mà chúng ta cần phải nhớ đến, chiêm niệm trong thinh lặng. Thí dụ, Thánh Gioan cho chúng ta biết rằng để nắm chắc mặc khải của Thiên Chúa, chúng ta trước hết phải lắng nghe, rồi thưa lại bằng cách công bố điều chúng ta đã nghe và thấy (x 1 Ga 1:2-3; Dei Verbum, 1). Có phải chúng ta đã đánh mất điều gì trong nghệ thuật nghe không? Chúng ta có dành chỗ để nghe tiếng thì thầm của Thiên Chúa mời gọi chúng ta tiến lên đi vào sự tốt lành không? Các bạn, đừng sợ thing lặng và bất động, hãy lắng nghe Thiên Chúa, thờ phượng Ngài trong Bí Tích Thánh Thể. Hãy để cho Lời Ngài uốn nắn hành trình của các bạn như là một tỏ bày sự thánh thiện.

Trong Phụng Vụ chúng ta thấy toàn thể Hội Thánh cầu nguyện. Từ Phụng Vụ (Liturgy) có nghĩa là tham gia cùng Dân Thiên Chúa vào “công trình của Đức Kitô, vị Thượng Tế và vào Nhiệm Thể Người là Hội Thánh” (Sacrosanctum Concilium, 7). Công trình đó là gì? Trước hết công trình đó ám chỉ Cuộc Khổ Nạn, cái Chết và Phục Sinh cùng Lên Trời của Đức Kitô – là điều mà chúng ta gọi là Mầu Nhiệm Vượt Qua. Công trình này cũng ám chỉ chính cuộc cử hành Phụng Vụ. Thực ra, hai ý nghĩa này liên kết với nhau và không thể tách rời nhau được bởi vì “công trình này của Chúa Giêsu” chính là nội dung thật của Phụng Vụ. Nhờ Phụng Vụ, “công trình của Chúa Giêsu” được liên tục tiếp xúc với lịch sử, với đời sống chúng ta để uốn nắn chúng. Ở đây chúng ta được thoáng thấy vẻ huy hoàng của Đức Tin Kitô. Mỗi khi chúng con tụ họp lại để dâng Thánh Lể, khi chúng con đi Xưng Tội, khi chúng con cử hành bất cứ bí tích nào, Chúa Giêsu làm việc đó. Nhờ Chúa Thánh Thần, Người kéo chúng con lại với Người, kéo vào trong tình yêu hiến tế của Đức Chúa Cha, và trở thành tình yêu đối với mọi người. Như thế chúng ta thấy rằng Phụng Vụ của Hội Thánh là một mục vụ của hy vọng cho nhân loại. Sự tham gia chung thủy của chúng con, là một hy vọng linh hoạt giúp làm cho thế gian – các Thánh cũng như người tội lỗi -- mở ra cho Thiên Chúa; đó là niềm hy vọng chân chính cho nhân loại mà chúng ta cúng hiến cho mọi người (x. Spe Salvi, 34).

Việc cầu nguyện cá nhân của chúng con, thì giờ chiêm niệm thinh lặng, và việc tham gia vào Phụng Vụ Hội Thánh của chúng con, đem chúng con lại gần Thiên Chúa hơn và cũng sửa soạn cho chúng con để phục vụ tha nhân. Các Thánh đồng hành với chúng ta chiều hôm nay chỉ cho chúng ta rằng đời sống Đức Tin và hy vọng cũng là đời bác ái. Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu trên Thánh Giá chúng ta thấy tình yêu dưới dạng căn bản nhất. Chúng ta có thể bắt đầu tưởng tượng ra con đường tình yêu mà chúng ta phải đi theo (x. Deus Caritas Est, 12). Có quá nhiều dịp để thực hiện cuộc hành trình này. Hãy nhìn chung quanh chúng con với cặp mắt của Đức Kitô, hãy nghe với đôi tai của Người, hãy cảm giác và suy nghĩ với trái tim và trí óc của Người. Chúng con có sẵn sàng cho đi tất cả vì chân lý và công lý như Người đã làm không? Chúng ta vẫn còn tìm thấy nhiều gương về chịu đau khổ mà các Thánh của chúng ta đã đáp lại bằng tình thương ở đây, trong và ngoài thành phố này. Và những bất công mới đã mọc lên: có những bất công phức tạp phát sinh từ việc khai thác con tim và thao túng trí khôn; ngay cả môi trường sống chung của chúng ta, là chính trái đất, cũng phải rên siết dưới sức nặng của chủ nghĩa tiêu thụ hà tiện và khai thác vô trách nhiệm. Chúng ta phải nghe tận đáy lòng. Chúng ta phải trả lời với những hành động xã hội mới phát sinh từ tình yêu phổ quát vô bờ. Bằng cách này, chúng ta đảm bảo rằng các việc thương xót và công lý của chúng ta trở nên hành động hy vọng cho người khác.

Các người trẻ thương mến, cuối cùng Cha muốn chia sẻ với chúng con vài lời về ơn kêu gọi. Trước hết Cha nghĩ đến các phụ huynh, ông bà và các người đỡ đầu. Các vị ấy là những nhà gioá dục Đức Tin chính của chúng con. Qua việc đưa chúng con đến đê Rửa Tội, các vị ấy giúp chúng con nhận được món quà quý nhất trong đời chúng con. Trong ngày đó chúng con đi vào sự thánh thiện của chính Thiên Chúa. Chúng con trở thành nghĩa tử, nghĩa nữ của Chúa Cha. Chúng con được tháp nhập vào Đức Kitô. Chúng con trở thành nơi Chúa Thánh Thần ngự. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các phụ huynh khắp nơi trên thế giới, nhất là những người có thể đang vật lộn cách này hay cách khác – xã hội, vật chất, tâm linh. Chúng ta hãy tôn vinh ơn gọi hôn nhân và giá trị của đời sống gia đình. Chúng ta hãy luôn đề cao rằng chính trong các gia đình mà ơn thiên triệu được phát sinh.

Họp nhau đây ở Chủng Viện Thánh Giuse, Cha chào mừng các chủng sinh đang có mặt và thực sự khuyến khích tất cả các chủng sinh khắp Mỹ Quốc. Cha rất hãnh diện vì biết rằng số chúng con đang gia tăng! Dân Thiên Chúa trông mong rằng chúng con sẽ là những linh mục thánh thiện, đi trên đường hoán cải mỗi ngày, gợi cho người khác ước muốn đi sâu xa hơn vào đời sống Hội Thánh của tín hữu. Cha van nài chúng con hãy làm cho sự liên hệ của chúng con với Chúa Giêsu, Chúa Chiên Lành thêm mật thiết. Thưa chuyện với Người bằng cả tấm lòng chúng con. Xua đuổi những cám dỗ phô trương, ham danh vọng, hoặc tự cao tự đại. Hãy cố gắng để đạt được một kiểu sống thật sự được đánh dấu bằng đức ái, đức trong sạch và đức khiêm nhường, nhờ noi gương Đức Kitô, Vị Thượng Tế Vĩnh Cửu, mà chúng con sẽ trở thành hình ảnh sống động của Người (x. Pastores Dabo Vobis, 33). Các chủng sinh thân thương, Cha cầu nguyện cho chúng con hằng ngày. Chúng con nên nhớ rằng điều có giá trị trước mặt Chúa là sống trong tình yêu của Người và làm cho tình yêu của Người chiếu rọi trên tha nhân.

Các Sơ, các Thầy Dòng và các Linh Mục đóng góp rất nhiều cho sứ vụ của Hội Thánh. Việc làm chứng cách ngôn sứ của họ được đánh dấu bằng một xác tín sâu xa về vai trò tiên quyết của Tin Mừng trong việc hình thành đời sống Kitô hữu và biến đổi xã hội. Ngày nay, Cha muốn chúng con chú ý vào việc canh tân đời sống tâm linh mà các Dòng Tu đang thực hiện trong tương quan với đoàn sủng của họ. Từ đoàn sủng có nghĩa là món quà Thiên Chúa ban cách nhưng không và độ lượng. Các đoàn sủng đã được Chúa Thánh Thần ban tặng. Ngài linh hứng các vị sáng lập nam nữ, và sau đó hình thành Các Dòng với một di sản linh đạo. Hàng loạt đặc sủng lạ lùng riêng cho từng Dòng Tu là một kho tàng linh đạo phi thường. Thực ra, đương nhiên là lịch sử Hội Thánh trình bày cách mỹ miều nhất các trường phái linh đạo của mình, hầu hết đều phát sinh từ đời sống thánh thiện của các đấng sánh lập nam nữ. Nhờ khám phá ra đặc sủng, là điều đem lại sự khôn ngoan tâm linh rộng rãi như thế, Cha chắc chắn rằng một số người trẻ trong chúng con sẽ được lôi cuốn vào đời sống tông đồ hoặc phục vụ chiêm niệm. Đừng ngần ngại nói chuyện với các Thầy Dòng, các Sơ, hay các Linh Mục về đoàn sủng hay linh đạo của Dòng họ. Không có một cộng đồng nào hoàn hảo cả, nhưng chính là lòng trung thành với đặc sủng khi được sáng lập, chứ không phải với những cá nhân đặc biệt nào, mà Chúa mời gọi chúng con tìm hiểu. Hãy can đảm lên! Chúng con cũng có thể làm cho đời sống chúng con thành một món qua tự hiến cho tình yêu của Chúa Giêsu, và trong Người, tất cả mọi phần tử của gia đình nhân loại (x. Vita Consecrata, 3).

Các bạn, một lần nữa Cha xin chúng con, ngày hôn nay thì sao? Chúng con đang tìm kiếm gì? Niềm hy vọng không bao giờ làm chúng con thất vọng là Đức Chúa Giêsu Kitô. Các Thánh chỉ cho chúng ta tình yêu vô vị lợi của con đường của Người. Là các môn đệ của Đức Kitô, cuộc hành trình phi thường của các Ngài được bày tỏ trong cộng đoàn hy vọng, là Hội Thánh. Chính từ cung lòng Hội Thánh mà chúng con cũng sẽ tìm thấy can đảm và sự nâng đỡ để đi theo đường của Chúa. Được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện, được thôi thúc trong thinh lặng, được hình thành bởi Phụng Vụ của Hội Thánh, chúng con sẽ khám phá ra ơn gọi riêng mà Thiên Chúa dành cho chúng con. Hãy ôm lấy nó với niềm vui. Hôm nay chúng con là môn đệ Đức Kitô. Chúng con hãy chiếu ánh sáng của Người trên thành phố vĩ đại này và ngoài nó. Các cho hãy chỉ cho thế giới lý do của niềm hy vọng đang vang dội trong chúng con. Hãy nói cho người khác về chân lý đang giải phóng chúng con. Với những tâm tình của niềm hy vọng lớn lao trong chúng con, Cha tạm biệt chúng con, cho đến khi chúng ta tái ngộ ở Sydney Tháng Bảy này trong Ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới! Như là một bằng chứng cho tình yêu của Cha đối với chúng con và gia đình chúng con, Cha hân hạnh ban Phép Lành Tòa Thánh cho chúng con.

[Vài lời bằng tiếng Tây Ban Nha:]

Các chủng sinh và các bạn trẻ thân mến:

Thật là một niềm vui mừng lớn lao cho Cha được gặp chúng con hôm nay, trong ngày sinh nhật của Cha. Cám ơn chúng con về sự đón tiếp và ưu ái chúng con đã dành cho Cha.

Cha khuyến khích chúng con mở lòng ra cho Thiên Chúa để Ngài đổ đầy lửa tình yêu vào đó, để chúng con đem Tin Mừng của Ngài đến tất cả các quận của New York.

Ánh sáng Đức Tin sẽ thúc đẩy chúng con lấy điều lành và đời sống thánh thiện mà đáp trả điều dữ, như các nhân chứng vĩ đại của Tin Mừng đã làm qua nhiềy kỷ nguyên. Chúng con được mời gọi để tiếp tục dây chuyền thân hữu của Đức Kitô, là Đấng mà người ta tìm thấy trong tình yêu của Người một kho tàng đời sống vĩ đại. Chúng con hãy vun trồng tình bằng hữu này bằng cầu nguyện, cả cầu nguyện riêng lẫn phụng vụ, và bằng những công việc bác ái và quyết tâm giúp đỡ những người đói nghèo nhất.

Nếu chưa làm như thế, hãy nghêm nghị tự hỏi mình xem Chúa có mời chúng con theo Người một cách dứt khoát qua mục vụ Linh Mục và đời thánh hiến không. Có một liên hệ lỏng lẻo với Đức Kitô chưa đủ. Tình bằng hữu như thế không phải là tình bằng hữu. Đức Kitô muốn chúng con là một trong những người bạn nghĩa thiết, trung thành, và kiên trì của Người

Cha xin nhắc lại lời mời chúng con tham dự ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Sidney, Cha bảo đảm với chúng con rằng Cha nhớ đến chúng con trong lời cầu nguyên của Cha, trong đó Cha xin Thiên Chúa làm cho chúng con trở thành các môn đệ đích thực của Đức Kitô Phục Sinh. Cám ơn chúng con rất nhiều.

+ ĐTC Bênêđictô XVI

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

Mục lục

Đức giáo hoàng sẽ dùng kỹ thuật số để nối kết với giới trẻ tại Sydney

 

Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI sẽ “text message” (gửi lời nhắn) tới điện thoại di động của hàng ngàn thanh thiếu niên Công giáo trong Ngày Giới Trẻ Thế giới tại Sydney vào tháng 7 sắp tới, với hy vọng rằng kỹ thuật số sẽ giúp ngài tiếp xúc với lớp khán thính giả trẻ trung một cách tốt đẹp hơn.


Đức giáo hoàng sẽ gửi các thông điệp gây nguồn cảm hứng và hy vọng trong suốt sáu ngày lễ hội tại Sydney, các bức tường cầu nguyện bằng kỹ thuật số sẽ được dựng lên tại các địa điểm hành lễ, và giáo hội sẽ lập một trang Web trên mạng internet xã hội Công giáo tương tự như mạng Catholic Facebook.

Giáo hội Công giáo cho biết đã quyết định dùng kỹ thuật mới để kết nối với khoảng 250 ngàn thanh thiếu niên Công giáo dự trù sẽ tham dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới khai mạc ngày 15 tháng 7 này.

 

Trong một tuyên bố phổ biến ngày thứ Tư hôm qua, Đức giám mục Anthony Fisher nói rằng: “Chúng tôi muốn biến Ngày Giới Trẻ Thế Giới thành một cảm nghiệm độc đáo bằng cách sử dụng những phương thức mới để nối kết với giới trẻ ngày nay quá rành rẽ về kỹ thuật.”


Công ty viễn thông Úc Telstra sẽ cung cấp các dịch vụ truyền tiếng nói, dữ kiện, mạch broadband cho dịp này, cũng như dựng các bức tường cầu nguyện kỹ thuật số tại các điểm hội họp và hành lễ.


Telstra tuyên bố có kế hoạch nối kết 8000 người thiện nguyện, 2000 giáo sĩ, 3000 phóng viên truyền thông, và khoảng 225 ngàn tham dự viên Ngày Giới Trẻ với hơn 700 địa điểm chung quanh Sydney.


Các nữ tu Công giáo đã cầu nguyện để có được thời tiết tốt đẹp trong thời gian thăm viếng của Đức giáo hoàng.

 

Trong tổng số dân 21 triệu người của nước Úc, Công giáo là đạo lớn nhất, có khoảng 5 triệu giáo dân, so với Anh giáo có chừng 4 triệu tín đồ.

 

Các vị Giáo Hoàng với Đất Nước Hoa Kỳ


Tại Hoa Kỳ, số dân tự nhận là Công Giáo chiếm nhiều hơn số dân tự nhận họ là Kitô Giáo hay Tin Lành. Vậy thế nên, trong lịch sử của Đạo Công Giáo tại Hoa Kỳ, đất nước này đã từng được các vị Giáo Hoàng sau đến viếng thăm mục vụ:


Lần 1: Vào năm 1965, Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục ghé đến thăm New York, USA.


Lần 2: Vào năm 1979, Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị với chuyến viếng thăm mục vụ đến Boston (MA), New York (NY), Philadelphia (PA), Des Moines (IA), Chicago (IL), và Washington, D.C.


Lần 3: Vào năm 1981, Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị viếng thăm mục vụ thành phố Anchorage thuộc tiểu bang Alaska, Hoa Kỳ.


Lần 4: Vào năm 1987, Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị với chuyến viếng thăm mục vụ đến Miami (FL), Columbia (SC), New Orleans (LA), San Antonio (TX), Phoenix (AZ), Los Angeles (CA), San Francisco (CA), và Detroit (MI).


Lần 5: Vào năm 1993, Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị với chuyến viếng thăm mục vụ đến Denver (CO) nhân Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới (World Youth Day) lần thứ 8.


Lần 6: Vào năm 1995, Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị với chuyến viếng thăm mục vụ đến New York (NY), Newark (NJ), và Baltimore (MD).


Lần 7: Vào năm 1999, Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị với chuyến viếng thăm mục vụ đến St. Louis (MO).


Lần 8: Vào năm 2008, Đức đương kim Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 với chuyến viếng thăm mục vụ đến Washington, D.C., và New York (NY).


Như vậy là 2 thành phố được các vị Giáo Hoàng viếng thăm nhiều nhất chính là New York (NY) và Washington, D.C.

Giáo Hoàng Đại Học Salêdiêng: Trao bằng tiến sĩ danh dự cho Đức Thượng Phụ Karekin II, Giáo Chủ Giáo Hội chính thống Armenia

 

 (UPS-Roma): 07.05.2008, Giáo Hoàng Đại Học Salêdiêng (UPS) đa trao bằng tiến sĩ danh dự về thần học mục vụ giới trẻ cho Đức Thượng Phụ Karekin II, giáo chủ giáo hội chính thống Armenia. Hiện diện trong buổi lễ có ĐHY Tarcisio Bertone SDB, Quốc Vụ Khanh Toà Thánh; ĐHY Walter Kasper, chủ tịch hội đồng Toà Thánh về hiệp nhất Kitô và ĐHY Farina SDB.


Giáo Hội chính thống Armenia được hai thánh tông đồ Tađêo và Batôlômêô thành lập vào thế kỷ I, nhưng sau đó phải trải qua thời gian bách hại nặng nề. Đến năm 301 được công bố là quốc giáo của toàn đất nước Armenia và từ đó nền giáo dục kitô giáo mang đến cho đất nước và người dân những hoa quả ngọt ngào: các trường học, trung tâm giáo dục, các cơ sở giáo hội, các đan viện phát triển không ngừng. Thế kỷ V – VI trở nên thời kỳ vàng son của giáo hội chính thống Armenia. Tuy nhiên, chiến tranh và đặc biệt dưới thời Xô Viết, giáo hội đã chịu nhiều thiệt hại nặng nề: trường học công giáo đóng cửa, các chủ chăn bị cầm tù (chỉ tính từ năm 1915 đến 1921 có khoảng 4000 linh mục bị giết hại, hàng trăm cơ sở của giáo hội bị phá huỷ). Tuy nhiên, từ năm 1990, giáo hội chính thống Armenia mặc một khuôn mặt mới, đặc biệt nhờ sự lãnh đạo của Karekin II, giáo hội có một sức sống mới.


Đức Thượng Phụ Karekin II sinh tại Volskehat, Armenia năm 1951; ngài được bầu là giáo chủ thứ 132 của giáo hội chính thống Armenia vào năm 1999 (21 tháng 10). Ngay từ khi lãnh đạo giáo hội chính thống Armenia, ngài thiết lập tương quan với chính phủ Armenia; không ngừng xây dựng giáo hội Armenia qua việc thiết lập các chủng viện, các cơ sở công giáo và các trường học; đẩy mạnh việc đào tạo linh mục; thành lập các trung tâm giáo dục và cổ võ hoạt động phục vụ giới trẻ, cách đặc biệt “Trung Tâm Giới Trẻ Armenia” nơi qui tụ hơn 3000 bạn trẻ đang hấp thụ nền giáo dục Kitô giáo. Ngài cũng đóng góp tích cực cho việc cổ võ tiến đến hiệp nhất kitô giáo: thăm viếng Vatican và cử hành phụng vụ Lời Chúa cùng với ĐTC Gioan Phaolô II (10.11.2000) và trong những ngày ngày viếng thăm và gặp gỡ ĐTC Benedetto XVI tại Vatican.


Việc Đại Học Giáo Hoàng Salêdiêng (UPS) trao bằng tiến sĩ danh dự cho Đức Thượng Phụ Karekin II không chỉ là một “niềm vinh hạnh cho ngài và cho toàn thể giáo hội chính thống Armenia”, như lời ĐHY Bertone, “mà còn là một dấu chỉ của sự hiệp thông và hiệp nhất trong sứ mệnh giáo dục giới trẻ và thăng tiến phẩm giá người trẻ theo giá trị kitô giáo”.


Kết thúc buổi lễ, trước khi nói lên lời tri ân đến tất cả, cách đặc biệt Đại Học UPS, Đức Thượng Phụ Karekin II đã chia sẻ vắn tắt về lịch sử giáo hội chính thống Armenia, việc xây dựng và mục vụ trong thế giới ngày nay. Ngài nhấn mạnh: “thế giới ngày nay thay đổi nhanh chóng, khiến cho những thao thức của giáo hội cũng đổi thay. Nhưng lòng trung thành vẫn phải tìm thấy trong các linh mục, điều này thể hiện qua đức tin, sự thánh thiện, tình yêu phục vụ, tri thức và lòng mến”.


Ước chi cử chỉ trao bằng tiến sĩ danh dự về thần học mục vụ giới trẻ cho Đức Thượng Phụ Karekin II sẽ mang lại nhiều ý nghĩa trong cổ võ sự hiệp nhất các giáo hội Kitô.

 

Mục lục

 

 

THANH HOÁ KHAI SINH HỘI THẦY THUỐC SAMARITANÔ


ĐỘNG LÒNG TRẮC ẨN


Tại Nazareth, Chúa Giêsu đã làm nghề thợ mộc cùng vớ?i thánh Giuse, cha nuôi Ngài. Điều đó có nghĩa Ngài đã thánh hoá cuộc sống bằng một nghề nghiệp cụ thể. Đây cũng là đường hướng mục vụ của Giáo Hội: các phong trào, đoàn thể được sáng lập để giúp Kitô hữu sống đạo bằng chính cuộc đời cá biệt của mình.

Theo tinh thần đó, hội THẦY THUỐC SAMARITANÔ đã được Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh chính thức thành lập ngày 07.05.2008, với mục đích tạo điều kiện cho giới Y Bác sĩ sống đạo trong nghành nghề chuyên môn của mình. Ngoài ra, với tư cách đoàn thể của Giáo phận, họ có sứ mệnh cứu giúp bệnh nhân v à người đau khổ, khuyết tật như một cánh tay nhân ái của Mục tử Giáo phận. Ý tưởng đặt tên Hội là Samaritanô được rút ra từ Tin Mừng Luca 10,19-27. Xuyên qua đó, thành viên của Hội đựơc mời gọi hun đúc con tim biết trắc ẩn như người Samari nhân lành trong câu chuyện. Một cách cụ thể, hoạt động của Hội sẽ là khám, chữa bệnh cho người nghèo trong điều kiện cho phép.


MỘT CÔNG TRÌNH HỢP TÁC VÌ NGƯỜI NGHÈO


Từ 9h sáng, hơn 30 hội viên, gồm các Thạc sĩ, Bác sĩi, Y sĩ, Y tá đã tề tựu về Toà Giám mục để tham dự lễ ra mắt của Hội. Thành phần chủ lực là giáo dân, ngoài ra còn có cả các Y Bác sĩ nữ tu, Ứng sinh và cả những lương dân. Anh Lê Xuân Khôi- mộ?t y sĩ đa khoa, không cùng tôn giáo đã cho biết: “Tôi muốn đem chút thiện ý của mình để đóng góp với Hội, để có điều kiện đi đến và giúp đỡ những người nghèo. Ngoài ra, tôi còn muốn giao lưu với các thành viên để học hỏi thêm những kinh nghiệm cho sự nghiệp và y đức của mình”. Và y tá Vũ Thị Xinh- giáo xứ Bạch Câu đã tâm sự: “Tuy mới ngày đầu thành lập, nhưng em đã ước mơ sau này Hội sẽ sản sinh những nhóm cấp giáo hạt, để khám chữa bệnh thường xuyên tại các giáo xứ, nhất là thành lập được những tủ thuố?c từ thiện, để cấp phát thuốc đúng đối tượng. Có những giáo xứ đã có tủ thuốc, nhưng nhữ?ng thứ thuốc cần thiết như: cảm cúm, sốt phát ban, thuỷ đậu, ho viêm họng và tiêu chảy…vẫn còn thiếu nhiều. Dù cảm thấy khả năng mình chưa phù hợp với công tác của Hội, nhưng em rất muốn tham gia để làm một chút gì đó cho các bệnh nhân nghèo, em muốn bắt chước gương của Chúa Kitô trong đời phục vụ”.


Thành phần khách mời gồm linh mục đoàn của Giáo phận vừa bế mạc tuần tĩnh tâm tháng 05.2008, các đại chủng sinh đang giúp xứ, đại diện Dòng Mến Thánh Giá Thanh Hoá. Tất cả đều phấn khở?i chào mừng sự ra đời của một đoàn thể mới trong Giáo phận.


TIẾNG GỌI CỦA LÒNG NHÂN ÁI


Đức Cha Giuse đã ân cần giải thích việc dấn thân của Hội: “Đạo Chúa Giêsu là đạo 'nhập thể'. Đức Giêsu đã xuống thế, đi vào lòng đời, đi vào lòng người để phục vụ. Chúng ta theo Ngài vào đời với hành trang sẵn có trong tay, sẵn sàng phục vụ với nén bạc Chúa trao không so đo tính toán, để thánh hoá cuộc đời mọi người và của chính chúng ta, với tôn chỉ chính yếu là 'sống đức tin bằng nghề nghiệp', để giúp đỡ các đối tưuợng ưu tiên của Tin Mừng là người nghèo và khuyết tật”.


Ngài cũng bày tỏ mối lo âu về những hoạt động ban đầu của Hội, do tính cách còn mới mẻ, nên thành viên trong Hội chưa hề có kinh nghiệm hoạt động. Ngài kêu gọi mọi người hãy đem hết tâm lực xây dựng Hội và can đảm vượt qua giai đoạn “vạn sự khởi đầu nan”. Ngài nói: “Dù bận rộn đến đâu đi nữa, chúng ta cũng hãy cố dành cho hoạt động nhân ái của chúng ta mộ?t phần thời giờ quý báu của chúng ta”.

Phương thức hoạt động của Hội: Hoàn toàn từ thiện và miễn phí. Đối tượng phục vụ: Tất cả mọi người, không phân biệt lương, giáo. Ưu tiên cho người nghèo, tàn tật và nạn nhân của các thảm hoạ.


Lễ ra mắt tuy đơn giản nhưng đầy đủ các tiết mục: Bá cáo quá trình thành lập, giới thiệu khách mời và hội viên, quyết tâm của đại diện hội viên. Chương trình được chia đôi bằng bữa tiệc liên hoan do quý hội chiêu đãi. Buổi chiều, Hội đã dành thời giờ để thảo luận về những đợt xuất quân sắp tới. Ngày ra mắt được kết thúc bằng những phút cầu nguyện và phép lành của Vị cha chung Giáo phận.


THÊM MỘT BÔNG HOA


Hội thầy thuốc ra đời, vườn hoa Giáo phận điểm thêm một màu sắc mới. Chúng ta hãy hiệp ý cầu nguyện cho Hội được luôn bền vững và phát triển trong tinh thần Phúc Âm, làm thế nào để, như lời của Đức Cha Giuse, chúng ta có “một đội quân áo trắng với cây thập giá đỏ, luôn hiện diện trên mọi nẻo đường của xứ Thanh, làm cho bộ mặt của Thanh Hoá ngày càng nhân ái hơn, dạt dào tình người hơn”.

Hội cũng rất hân hạnh được đón nhận mọi sự hợp tác, tài trợ của ân nhân xa gần, của tất cả những ai muốn dùng bàn tay của Hội để tặng quà, thuốc men, dụng cụ y tế cho người nghèo và khuyết tật. Mọi liên lạc xin gởi về linh mục đồng hành của Hội:


Linh mục Tôma Lê Xuân Khấn


Nhà thờ Đa Minh


Quảng Long, Quảng Xương, Thanh Hoá, Việt Nam


Tel: (0)373.676.808. Cell: (0)913.269.203.


Email: khanthvn@yahoo.com

 

Miền dòng Ngôi Lời Giuse được nâng lên thành Tỉnh dòng Ngôi Lời Việt Nam


NHA TRANG — Miền dòng Ngôi Lời Giuse được nâng lên thành Tỉnh dòng Ngôi Lời Việt Nam trong một Thánh lễ đặc biệt hôm 31/3 do Đức cha Giuse Võ Đức Minh, Giám mục phó Giáo phận Nha Trang, chủ tế, tại trụ sở chính của dòng ở Thành phố Nha Trang, cách Hà Nội 1.280 km về phía nam.


Tham dự Thánh lễ có Linh mục Antonio M. Pernia, người Philippines, Bề trên Tổng quyền, Linh mục William Burt, người Úc, Linh mục John O’Mahony, người Philippines, và các tu sĩ địa phương. Linh mục Hyacinthe Võ Thành Châu được bổ nhiệm làm Bề trên Giám tỉnh.


“Chúng tôi hy vọng địa vị mới sẽ giúp chúng tôi tăng cường khả năng đào tạo tu sĩ và phát triển các tu sĩ trẻ” - Linh mục Theophile Ngô Hoàn Cầu, cựu bề trên, phát biểu với UCA News hôm 18/4.


Cha Cầu hy vọng các tỉnh dòng SVD ở các nước khác sẽ tiếp tục hỗ trợ cho tỉnh dòng của ngài bằng cách cử thành viên sang đào tạo các tu sĩ địa phương. Hiện tại, một số tu sĩ địa phương đã được gửi đi du học.


Cha cho biết việc sáp nhập vào SVD đã tạo cơ hội cho cả hai bên chia sẻ và hỗ trợ nhau. “Chúng tôi có nhân sự, có truyền thống, có sự kiên trì, can đảm trong thời kỳ khó khăn. Bên kia có tài chính, có phương pháp làm việc, có kinh nghiệm truyền giáo đa dạng và phương pháp đào tạo nhân sự hiên đại. Chúng tôi hỗ trợ và chia sẻ cho nhau” - ngài nói. “Với địa vị mới này, chúng tôi có thể mở rộng các hoạt động mục vụ sang các nước khác. Các thành viên được yêu cầu truyền giáo ở nước ngoài ít nhất trong 3 năm” - ngài cho biết thêm.


Miền dòng Thánh Giuse trước đây là một dòng có thành phần hỗn hợp, gồm cả linh mục và tu huynh, có mục đích chính là truyền giáo. Ban đầu dòng có tên là Anh em hèn mọn Thánh Giuse, được Đức Giám mục Jean Sion, thuộc Hội Thừa sai Hải ngoại Paris, thành lập năm 1926, tại Giáo xứ Nhà Đá, Giáo phận Quy Nhơn. Năm 1931, Dòng được sự chấp thuận chính thức của Toà Thánh. Đầu năm 1942, cha Jean Sion phải nhận sứ vụ mới - Giám mục Giáo phận Kontum. Dòng Thánh Giuse đã gặp nhiều khó khăn do việc ra đi của Đấng Sáng Lập.


Năm 1955, Đức cha Marcel Piquet, Giám mục Giáo phận Quy Nhơn - lúc đó là Hạt Đại diện Tông Toà - đã cho chuyển cơ sở chính của Dòng về Nha Trang. Tại đây, Dòng đã thành lập các trường tiểu học và trung học. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng hoạt động của Dòng vẫn phát triển tốt và thu được nhiều kết quả.


Năm 1995, Dòng Thánh Giuse và Dòng Ngôi Lời ký bản liên kết hoạt động trong 3 năm. Ngày 19/3/1998, Toà Thánh Vatican chấp thuận việc sát nhập Dòng Thánh Giuse vào Dòng SVD. Lý do sát nhập là để củng cố và trau dồi đời sống tu đức cũng như thực hiện việc truyền giáo của Dòng Thánh Giuse được tốt hơn. Sau hơn 10 năm sát nhập, miền dòng Thánh Giuse chính thức trở thành Tỉnh dòng Ngôi Lời Việt Nam.


Trước 1975, các thành viên của dòng làm việc tại các trường học, giáo xứ và các vùng xa xôi không có giáo xứ ở miền Nam Việt Nam. Từ sau năm 1975, đất nước thống nhất, tài sản của Dòng bị Nhà nước tịch thu và mọi thư từ và hoạt động của dòng bị kiểm soát. Họ phải kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau, chăn nuôi, làm nông hay làm công nhân trong các cơ quan của Nhà nước…


Hiện nay, các tu sĩ SVD địa phương làm việc tại 9 giáo phận trên cả nước. Họ giúp đỡ người khuyết tật, bệnh nhân phong và người bị nhiễm HIV/AIDS cũng như gia đình của những người này. Họ còn dạy chữ, đào tạo nghề và tạo công ăn việc làm cho người nghèo ở các vùng xa xôi. Một số tu sĩ làm việc với người Chăm, K’Hor và Raglay ở các tỉnh miền Trung và miền Bắc.


Tỉnh dòng dự định xây một “nhà truyền thống” với mục đích lưu giữ những kỷ vật, bút tích, hình ảnh của các bậc tiền bối để giúp người trẻ ý thức và hiểu rõ hơn lịch sử, quá trình tồn tại và phát triển của dòng.

Tỉnh dòng mới ở Việt Nam hiện có 155 tu sĩ, trong đó có một số linh mục hiện đang làm việc tại Ba Lan, Cộng hoà SEC, Paraway.


Dòng Ngôi Lời Quốc tế, được thành lập năm 1875 tại Hà Lan, hiện có 58 tỉnh dòng và miền dòng, với 6.096 thành viên làm việc tại 65 quốc gia.


UCA News

 

Mục lục

 

Bài phỏng vấn Linh mục Antôn Nguyễn Ngọc Sơn về những hoạt động bác ái xã hội


Đức ông Phêrô Nguyễn Văn Tài, Giám đốc Chương trình Đài Veritas, thực hiện


Các bạn thân mến, buổi thời sự hôm nay mời quý vị và các bạn theo dõi phỏng vấn Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, Tổng Thư ký Uỷ ban Bác ái Xã hội (UB BAXH) thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN).

- Đức ông Phêrô Nguyễn Văn Tài: Thưa linh mục, có tin nói rằng Hội đồng Giám mục Việt Nam xin mở lại Caritas Việt Nam. Linh mục có ý kiến như thế nào trong tư cách là Tổng Thư ký của UB BAXH?

- Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn: Thưa cha, đúng là Đức cha Chủ tịch của UB BAXH, Đức cha Đa Minh Nguyễn Chu Trinh, đã gửi đơn lên Ban Tôn giáo Chính phủ để xin thiết lập Caritas Việt Nam như một Hiệp hội Công giáo Tiến hành ở Việt Nam để thúc đẩy mọi tín hữu thể hiện lòng bác ái Công giáo cho tất cả mọi người.


Có lẽ chúng ta nên nói đôi chút về lịch sử của Caritas để hiểu rõ hơn. Chúng ta đều biết từ Caritas, gốc chữ Latinh có nghĩa là bác ái, yêu thương cách quảng đại, hoạt động từ thiện. Việc liên đới với người nghèo và dấn thân phục vụ họ theo giáo huấn và gương sống của Đức Giêsu là một đòi hỏi của bác ái Kitô giáo, đồng thời là sứ mệnh căn bản của Giáo Hội. Bác có nghĩa là rộng, ái có nghĩa là yêu; bác ái có nghĩa là yêu thương cách rộng rãi, quảng đại. Vì Thiên Chúa là tình yêu, Ngài đã yêu thương chúng ta cách quảng đại vô cùng khi ban Con Một Ngài là Đức Giêsu Kitô cho chúng ta, nên chúng ta cũng phải bắt chước Thiên Chúa yêu thương rộng rãi như vậy. Vì thế mà Giáo Hội khuyến khích thành lập tổ chức Caritas trong tất cả các nước trên mọi châu lục.


Hiện nay, chúng ta biết Tổ chức Caritas Quốc tế (tiếng Latinh gọi là Caritas Internationalis) được thành lập năm 1951 với 146 tổ chức thành viên cấp quốc gia, trụ sở hiện đang đặt tại Roma, nước Ý. Còn Caritas Việt Nam được Hội đồng Giám mục miền Nam Việt Nam thành lập vào năm 1965 ở Trung ương, và năm 1966 ở các giáo phận. Tên của mỗi giáo phận được đặt sau tên Caritas để gọi, ví dụ như Caritas Sài Gòn, Caritas Xuân Lộc, Caritas Huế… Mỗi Caritas giáo phận có văn phòng và hoạt động theo chương trình chung của Caritas Việt Nam đề ra cho những hoạt động bác ái xã hội như giúp đỡ các nạn nhân thiên tai, các người nghèo khổ, tàn tật. Đến tháng 6-1976, Caritas Việt Nam được lệnh tạm ngưng hoạt động.


Sau đó, UB BAXH được thành lập ngày 19/9/2001, trong Đại hội VIII của HĐGMVN tại Hà Nội, nhưng chỉ hoạt động chính thức sau kỳ họp ngày 26/9/2002 với sự tham dự của các đại biểu các giáo phận, cũng như các dòng tu đang hoạt động về bác ái xã hội trên toàn đất nước. Uỷ Ban đã bầu ra Ban Thường trực tại Trung ương cũng như các ban bác ái xã hội tại các giáo phận. Trong tinh thần hội nhập với thế giới của Việt Nam hiện nay, Uỷ ban Bác ái Xã hội đã xin phép dùng lại tên Caritas Việt Nam và các tên Caritas giáo phận cho thống nhất trong nước và phù hợp với các hoạt động toàn cầu.


- Đức ông Phêrô Nguyễn Văn Tài: Thưa linh mục, trong thời gian qua, khi có dịp tiếp xúc với một số tín hữu Việt Nam đang dấn thân trong lĩnh vực hoạt động bác ái xã hội, tôi có nhận được một vài lời than phiền nói rằng người Công giáo khi dấn thân vào công tác bác ái xã hội thường bị hiểu lầm, bị chèn ép, bị coi như là những công nhân hạng nhì. Nhà nước muốn cho những người Công giáo dấn thân vào trong lĩnh vực bác ái xã hội này để giúp đỡ cho những người neo đơn, những người gặp cảnh khốn cùng, những nạn nhân thiên tai, nhưng mà trong thực tế thì người Công giáo lại không được nhìn nhận có quyền lợi hay đúng hơn không được nhìn nhận có phẩm vị hay có bổn phận bằng nhau với những người khác. Linh mục nghĩ như thế nào về tình trạng kỳ thị này?


- Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn: Thưa cha, đúng là hiện nay cũng như trong quá khứ vẫn còn có những nghi ngại, những hiểu lầm trong hoạt động bác ái xã hội cũng như trong nhiều lĩnh vực khác. Hiện nay, Nhà nước chưa công nhận những hoạt động bác ái xã hội chính thức của Giáo hội Công giáo Việt Nam trong tư cách là một pháp nhân. Giáo hội Công giáo Việt Nam chưa có phép để mở các trường học, các nhà thương, các tổ chức như trại mồ côi hay những trung tâm đón nhận những người già yếu, trung tâm đón nhận những người bệnh tật, nhiễm HIV hay chạy chữa những người nghiện ma tuý trong tư cách là một pháp nhân Công giáo. Tuy nhiên, những người Công giáo trong tư cách là một công dân đều có quyền để mở các trung tâm hoặc thực hiện các hoạt động bác ái xã hội đó.


Thực tế thì Giáo hội Công giáo rất mong ước được Nhà nước cho phép mở trong tư cách pháp nhân, bởi vì chính ở trong tư cách pháp nhân thì chúng ta có thể động viên được sự cộng tác của nhiều người cũng như nhiều tập thể. Trong thời gian vừa qua, quả thật có những hiểu lầm, vì chúng ta cũng đã biết, từ năm 1945 cho đến nay, chúng ta cũng đã trải qua những cuộc chiến tranh giữa hai ý thức hệ - ý thức hệ cộng sản với ý thức hệ tư bản - và trong cuộc chiến tranh ấy, phải nói đôi bên có tuyên truyền làm cho bên này hiểu lầm bên kia, và Công giáo cũng như những tôn giáo khác cũng bị đưa ra và có thể nói tạo nên những hiểu lầm.


Chúng con hy vọng rằng, với thời gian, với sự thông cảm và hiểu biết lẫn nhau càng ngày càng phát triển và chúng ta có thể vượt qua những hiểu lầm, những nghi ngại đó, để có thể hoạt động chung với nhau trong mọi lĩnh vực.


Thực sự, hiện nay một trong những lĩnh vực có thể nói đang gây ra nhiều khó khăn và tạo nên nhiều bức xúc trong Giáo Hội đó là lĩnh vực giáo dục. Nhà nước vẫn chưa cho phép các tổ chức Công giáo cũng như các tôn giáo đứng ra để mở các trường như trường tiểu học, trung học, đại học. Các tu sĩ, nhất là các tu sĩ nữ Công giáo mới chỉ được phép mở các trường mẫu giáo mà thôi.


Khi con sang họp ở bên Thái Lan, con thấy trường Đại học của dòng Assomption ở bang Na, Bangkok, với 22.000 sinh viên, và theo như người ta cho chúng con biết, có thể nói 1/3 những viên chức Nhà nước làm việc ở trong các cơ quan của Thái Lan đã tốt nghiệp ở trong các Đại học cũng như trung học của dòng Assomption. Dòng này cũng rất mong ước sang Việt Nam để lập những đại học tương tự. Chúng con nghĩ rằng nếu dòng Assomption cũng như nhiều dòng tu có những điều kiện để mở những đại học như vậy thì chắc chắc nền giáo dục của chúng ta sẽ phát triển rất là tốt đẹp.


Thực tế hiện nay Nhà nước đang khó khăn lắm để mời các đại học khác - những đại học ở bên ngoài không phải là dòng tu - sang thiết lập tại Việt Nam, trong khi rất nhiều dòng tu muốn thiết lập tại Việt Nam thì lại chưa được phép. Đó là một điều có thể nói là đáng tiếc. Nhất là đứng ở trên phương diện người Việt Nam tự lực thì không thiếu những tổ chức, dòng tu người Việt Nam có khả năng để lập các trường tiểu học, trung học cũng như đại học, nhưng cho đến nay vẫn đang chờ giấy phép hay sự cởi mở thông thoáng của Nhà nước để có thể đóng góp vào nền giáo dục nước nhà.


- Đức ông Phêrô Nguyễn Văn Tài: Chúng tôi đã nghe nói về những sinh hoạt của UB BAXH của HĐGMVN trong thời gian qua, hay cách đặc biệt hơn trong hai ngày 13 và 13/3/2008 tại Trung tâm Mục vụ của Giáo phận Xuân Lộc đã có tổ chức một cuộc Hội thảo về Học thuyết Xã hội Công giáo. Như vậy, chúng ta có thể nghĩ cuộc Hội thảo này được phép của Nhà nước và những thuyết trình viên được chấp nhận một cách dễ dàng dù thuyết trình viên có người không sinh sống tại Việt Nam, nhưng được mời từ nước ngoài về. Như thế, chúng ta có thể nghĩ rằng đây là một dấu hiệu cho thấy có một sự cởi mở nào đó và cho phép chúng ta hy vọng trong một tương lai gần sẽ có những cởi mở nhiều hơn, người Công giáo được nhìn nhận nhiều hơn để tổ chức những hoạt động bác ái xã hội của mình, đồng thời cũng được nhìn nhận để đóng góp phần của mình trong những lĩnh vực khác, trong những lĩnh vực xã hội, chẳng hạn như cha vừa nói là lĩnh vực giáo dục. Vậy xin cha vui lòng cho các thính giả Việt Nam của Đài Chân lý Á châu biết sơ qua một vài điểm nội dung chính của cuộc họp 2 ngày vừa qua, ngày 12 và 13/3, tại Trung tâm Mục vụ Giáo phận Xuân Lộc.


- Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn: Thưa cha, trong 2 ngày 12 và 13/3 tại Xuân Lộc, UB BAXH có tổ chức một cuộc Hội thảo để giúp cho các tham dự viên cùng nhau học hỏi về Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo và bàn luận về những hoạt động bác ái xã hội mà các thành viên trong uỷ ban sẽ thực hiện trong nhiệm kỳ 2007-2010. Cuộc Hội thảo này có tất cả 85 tham dự viên đến từ 25 giáo phận và 17 dòng tu, chỉ có Giáo phận Bắc Ninh không thể tham dự vì hiện nay các linh mục đang phải lo rất nhiều cho các giáo dân trong Mùa Chay thánh, và vì giáo phận hiện đang trống toà cho nên chưa chỉ định được người tham dự Hội thảo. Ban tổ chức chúng con cũng chỉ mời được một số ít dòng tu đang có nhiều hoạt động bác ái ở Việt Nam, bởi vì do điều kiện toà nhà họp vừa mới xây dựng xong, cần phải hoàn chỉnh, nên chúng con không thể mời hết tất cả các dòng tu tham dự được.


Về thành phần các tham dự viên, có 4 giám mục, 48 linh mục, 21 nữ tu, 2 nam tu sĩ và 9 giáo dân. Đây cũng là lần họp có số người tham dự đông nhất, nhiều giáo phận và nhiều dòng tu tham dự nhất so với các lần họp trước.


Về nội dung, Hội thảo lần này tập trung vào 2 điểm. Điểm thứ nhất, đó là học hỏi về Học thuyết Xã hội Công giáo và bàn thảo các hoạt động bác ái xã hội của Uỷ Ban. Về việc học hỏi, Hội thảo đã dành riêng 1 ngày để học hỏi Học thuyết Xã hội với 6 bài trình bày của các thuyết trình viên.


Chúng con có mời Đức cha Micae Hoàng Đức Oanh, Chủ tịch Uỷ ban Loan báo Tin Mừng, để trình bày Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội; chúng con cũng đã mời cha Guy Maria Nguyễn Hồng giáo, dòng Phanxicô, trình bày về Nhân phẩm và nhân quyền trong Học thuyết Xã hội Công giáo; Lm. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, dòng Đa Minh, trình bày vấn đề Liên đới trong hoạt động bác ái xã hội ở Việt Nam; Lm. Phêrô Đặng Xuân Thành trình bày Mẫu thức thi hành công tác bác ái xã hội theo Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu của Đức Thánh Cha Beneđictô XVI; đặc biệt chúng con mời Đức ông Phêrô Nguyễn Văn Tài, Giám đốc Chương trình của Đài Veritas ở Philipines, trình bày về vấn đề Học thuyết Xã hội Công giáo và môi trường; và riêng cá nhân con trình bày Học thuyết Xã hội Công giáo và các vấn đề xã hội tại Việt Nam.


Qua 6 bài trình bày của các thuyết trình viên, chúng con thấy cũng chỉ mới tạm thời giới thiệu cho các tham dự viên một số vấn đề cần quan tâm. Thực ra, có lẽ cần phải có nhiều thời gian hơn nữa để học hỏi hầu nắm vững vấn đề và giới thiệu cho các anh em khác khi cộng tác với họ trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Chúng con cũng có ý định làm những tập sách nho nhỏ tóm kết những vấn đề để giới thiệu cho người tín hữu Việt Nam, nhất là qua các ban hành giáo, qua các hội đồng mục vụ giáo xứ để giúp cho các tín hữu biết về Học thuyết Xã hội của Giáo Hội.


Về điểm thứ hai, tức là bàn luận về hoạt động của UB BAXH trong mối tương quan với các ban bác ái xã hội của giáo phận, chúng con đã xin Sr. Maria Consolata Hồ Thị Chính, cựu Tổng Phụ trách dòng MTG Chợ Quán, trình bày Kinh nghiệm dấn thân hoạt động bác ái xã hội của người nữ tu ở Việt Nam; chúng con cũng đã xin các thuyết trình viên khác như anh Trần Tuấn Huy, Phó Giám đốc Công ty Hợp Tác trẻ, và Sr. Maria Nguyễn Thị Bích Huyền, giới thiệu cách thực hiện bản đồ xã hội của giáo phận; chị Đoàn Tâm Đan, Phó Giám đốc Trung tâm Tư vấn Công tác Xã hội và Phát triển Cộng đồng - SDRC, để trình bày về việc làm cách nào để giảm nhẹ tổn thất thiên tai dựa vào cộng đồng. Chúng con cũng trình bày những vấn đề xã hội cơ bản của Việt Nam để giúp cho các tham dự viên có thể ý thức về các vấn đề xã hội cũng như tìm phương cách để thực hiện, giúp cho xã hội càng ngày càng tốt đẹp hơn.


Tuy nhiên, chúng con thấy rằng các ban bác ái xã hội của giáo phận cũng như ngay tại UB BAXH Trung ương vẫn còn thiếu rất nhiều người chuyên trách về các vấn đề xã hội. Nhiều giáo phận hầu như chỉ có một vị linh mục được giám mục chỉ định lo về bác ái xã hội chứ chưa phải là những vị chuyên trách được đào tạo kỹ lưỡng, chưa thiết lập được văn phòng, chưa có cơ cấu tổ chức hoạt động. Vì thế, trong lần họp này, chúng con cố gắng giới thiệu cho các vị có trách nhiệm trong các ban bác ái xã hội giáo phận ý thức được vấn đề và thúc đẩy các vị có thể lập ra cơ cấu để lo cho các vấn đề xã hội một cách hiệu quả.


- Đức ông Phêrô Nguyễn Văn Tài: Dĩ nhiên để UB BAXH hoạt động một cách trọn vẹn hơn, hữu hiệu hơn, thì vấn đề tài chính và nhân sự là 2 vấn đề hết sức căn bản. Vậy linh mục có thể cho thính giả Việt Nam biết UB BAXH của HĐGMVN có những chương trình như thế nào trong tương lai gần đây xét về phương diện nhân sự, huấn luyện nhân sự hay là về tài chính, làm sao có quỹ để hoạt động, giúp cho những nạn nhân của những thiên tai, hay là những người cần đến sự giúp đỡ của UB BAXH?


- Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn: Thưa cha, về vấn đề nhân sự cũng như về những phương tiện, nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội, chúng con thấy trước hết cần phải xác định được những vấn đề xã hội ở Việt Nam hiện nay là những vấn đề nào thì mới tìm ra được những nhân sự để giải quyết các vấn đề đó, và điểm thứ hai là tìm nguồn lực ở đâu, ở nội lực của dân tộc hay là tìm sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế.


Trước hết, trong phần trình bày, chúng con cũng đã giới thiệu những vấn đề xã hội của Việt Nam. Hiện nay, dân số Việt Nam có khoảng 86 triệu người, trong đó có khoảng hơn 6 triệu người Công giáo. Và nếu đi vào các lĩnh vực cụ thể thì chúng con thấy hiện có rất nhiều vấn đề cần quan tâm tuỳ theo mức độ ưu tiên về tỉ lệ dân số hay là tình trạng khẩn cấp về mặt xã hội.


Chúng ta thấy 60% dân số là người trẻ dưới 30 tuổi, và rất nhiều người trẻ hiện nay có thể nói đang sống buông thả, đang chạy theo vật chất, và vấn đề giáo dục người trẻ là một vấn đề phải đặc biệt quan tâm.

Điểm thứ hai ở trong lĩnh vực cụ thể đó là vấn đề lao động: 54 % dân số thuộc thành phần lao động, trong số 45.600.000 người lao động năm 2006, có tới 30 triệu người lao động không chuyên nghiệp, và chính vì mức độ không chuyên nghiệp của họ cho nên họ dễ dàng bị thất nghiệp khi chuyển đổi cơ cấu từ nông nghiệp sang công nghiệp.


Rất nhiều những vùng nông thôn bây giờ được đô thị hoá và người nông dân không còn đất để trồng trọt. Hiện nay, đang có 6% dân số bị thất nghiệp, 8 triệu người di dân đi làm xa nhà, nhiều người bị bóc lột sức lao động, sống trong những điều kiện thiếu thốn và vì không có những phương tiện giải trí nên họ tìm đến nhau và sống thử trước hôn nhân, dẫn đến những nạn phá thai.


Vấn đề thứ ba đó là vấn đề phụ nữ: 51% dân số là phụ nữ, nhưng nhiều phụ nữ đang bị bạo hành trong gia đình, chưa được hưởng sự bình đẳng về giới, chưa biết bảo vệ sức khoẻ sinh sản, nhiều người phụ nữ ở miền cao, vùng sâu vùng xa, nhất là ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long có tới 60-80% phụ nữ mắc bệnh phụ khoa vì thiếu nước sạch, hơn 2 triệu phụ nữ là những người goá bụa đang sống rất nghèo khổ, rồi do tình trạng nghèo cho nên nhiều phụ nữ đang bị lạm dụng tình dục, phải lấy chồng nước ngoài, thậm chí phải bán rẻ thân xác.


Theo Cục Phòng chống Tệ nạn Xã hội của Bộ Lao động Thương binh - Xã hội, 6 tháng đầu năm 2007, cả nước Việt Nam có 55.000 người hành nghề mãi dâm, nhưng chúng con nghĩ rằng đó chỉ là con số kê khai hành chính, số người thực tế chắc chắn còn cao hơn nhiều.


Nếu để ý thêm một chút nữa, chúng ta thấy hiện nay có 20 triệu người, đa số là nam giới, uống rượu và nghiện rượu, dẫn đến bạo hành, ly hôn, bất hạnh trong gia đình. Chúng ta hiện đang có hơn 5 triệu người khuyết tật, chiếm gần 6% dân số, trong đó có 1.200.000 trẻ em và những trẻ em này gặp rất nhiều khó khăn trong việc học tập cũng như trong đời sống thường ngày.


Về tệ nạn xã hội hay là những bệnh xã hội thì chúng ta thấy đại dịch HIV/AIDS, với hơn 300.000 người nhiễm HIV/AIDS tính cho đến cuối năm 2007, đang là một vấn đề mà Giáo hội Việt Nam cần phải quan tâm, bởi vì cứ mỗi một ngày qua đi lại có thêm 100 người nhiễm HIV mới và 40 người qua đời vì AIDS; con số này vượt qua cả con số tính trung bình 30 người chết vì tai nạn giao thông.


Các tổ chức quốc tế đã trợ giúp hàng trăm tỉ đồng Việt Nam cho các tổ chức của Chính phủ mỗi năm, nhưng số người nhiễm HIV vẫn không giảm bớt do nhiều nguyên nhân và họ đang mời gọi Giáo hội Công giáo tích cực cộng tác vào hoạt động xã hội này để ngăn chặn hiểm hoạ.


Và nếu chúng ta đi thêm một tí nữa thì chúng ta cũng đừng quên là có 1.400.000 cho đến 2 triệu người phá thai mỗi năm, trong đó có rất nhiều người trẻ và họ đang cần được học hỏi về giá trị của sự sống, về giới tính, về tình yêu. Ngoài ra, chúng con cũng còn thấy các tệ nạn xã hội khác như có 180.000 người nghiện ma tuý, rồi nạn cờ bạc xảy ra nhiều nơi trong cộng đồng xã hội.


Nếu nói về tình trạng giáo dục, hiện nay, trình độ văn hoá dân chúng còn rất thấp, chỉ mới vừa tốt nghiệp cấp một mà thôi và còn 6% dân số mù chữ, nhất là ở vùng cao, vùng sâu. Trong hoàn cảnh vật giá leo thang như hiện nay, nhiều học sinh phải bỏ học, như chúng ta thấy Báo Tuổi Trẻ ngày 7/3/2008, chỉ trong có mấy tháng từ tháng 10 cho đến tháng 12 vừa qua đã có 114.000 học sinh bỏ học.


Chúng con vừa mới nói một vài lĩnh vực cụ thể thấy rằng một số những vấn đề xã hội cần quan tâm, nhưng còn nhiều vấn đề khác, con lấy thí dụ như môi trường sống ở Việt Nam cũng là một vấn đề xã hội lớn, bởi vì môi trường này đang bị ô nhiễm nặng nề. Trong Hội nghị Quốc tế về Môi trường ở Hà Nội trong tháng 2 vừa qua đã chỉ rõ cho thấy Afganistan và Việt Nam là 2 quốc gia sẽ chịu thiệt thòi nhất về vấn đề thay đổi khí hậu toàn cầu.

Nhiều vùng ven biển và các vùng châu thổ Sông Hồng và Sông Cửu Long sẽ chìm dưới mực nước biển và 17 triệu người dân sẽ trực tiếp bị ảnh hưởng. Mức độ ô nhiễm về bụi và khói xe trong các thành phố lớn có thể nói lớn gấp hàng chục lần so với mức độ cho phép dẫn đến nhiều bệnh tật, nhất là bệnh về đường hô hấp; các nguồn nước bị huỷ hoại hay ô nhiễm do các chất thải từ các nhà máy, các xí nghiệp tham lợi, không có hệ thống lọc nước thải đã gây nên nhiều bệnh nguy hiểm cho người dân.


Nếu chúng ta nói thêm một vấn đề khác mà Hội đồng Giám mục quan tâm rất nhiều và đã trợ giúp hằng năm là vấn đề thiên tai. Hằng năm, Việt Nam chịu khoảng 5, 6 cơn bão lớn và nhiều cơn bão nhỏ, cũng như các thiên tai khác như lũ lụt, hạn hán; cơn rét độc hại trong tháng giêng và tháng hai vừa qua đã giết hại hơn 37.000 trâu bò, hàng trăm ngàn hecta lúa bị thiệt hại, chưa kể một ít người đã thiệt mạng và các thiệt hại khác về lao động, về giáo dục, về y tế…, các học sinh phải bỏ học cả tháng trời. Mỗi thiên tai đều gây ra những thiệt hại lớn lao về người và của mà cộng đồng xã hội chúng ta chưa biết cách phòng chống.

Các nước châu Á đã tìm hiểu về vấn đề này để lập nên những hệ thống cảnh báo thiên tai và giáo dục cộng đồng về những phương pháp phòng chống để giảm thiểu hậu quả. Vì thế mà UB BAXH chúng con cũng đã dự tính mở những khoá đào tạo cho cộng đồng về vấn đề này, để giúp cho người dân ở trong các giáo phận có thể phòng chống thiên tai một cách hiệu quả.


Riêng về vấn đề tham nhũng và phòng chống tham nhũng cũng là một vấn đề lớn trong xã hội. Việt Nam đang là một nước có nạn tham nhũng cao, nếu tính vào năm 2005, Việt Nam là nước đứng thứ 107 trên 159 nước thiếu minh bạch về tài chính. Cục Phòng chống Tham nhũng cũng đã được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và luật tham nhũng cũng đã được ban hành. Tuy nhiên, phải nói thẳng rằng tham nhũng hiện đang là một quốc nạn phá rỗng lòng tin tưởng của người dân đối với công bằng xã hội.


Và Giáo hội Công giáo qua Huấn thị Cuộc chiến Chống Tham nhũng của Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hoà bình năm 2005 cũng đang mời gọi tất cả tín hữu trên toàn thế giới quan tâm về vấn đề này. Chúng con cũng đã phổ biến Huấn thị này cho các ban bác ái xã hội.


Tuy nhiên, như cha vừa hỏi là đứng trước những vấn đề xã hội nặng nề hiện nay, thì UB BAXH quan tâm đến những vấn đề nào? Chúng con trong cuộc Hội thảo này đã cùng nhau bàn luận để thấy rằng chúng ta không thể nào có đủ sức, về nhân lực cũng như vật lực, để lo cho tất cả những vấn đề xã hội, mà chúng con chỉ tập trung vào 3 vấn đề chính:


- thứ nhất là phòng chống thiên tai và cứu giúp những nạn nhân thiên tai hằng năm; -

- thứ hai là tập trung về vấn đề giáo dục, nhất là giáo dục người trẻ và trợ giúp cho các em thiếu nhi tàn tật để có thể học hành dễ dàng hơn, vượt qua những khó khăn hiện tại;

- và vấn đề thứ ba mà chúng con thấy đang gây bức xúc trong xã hội là vấn đề phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam, bởi vì đây là vấn đề đáng quan tâm do số người lây nhiễm cao và đang lan rất nhanh trong cộng đồng xã hội.


Cha đang hỏi chúng con về vấn đề dựa vào nhân lực và vật lực như thế nào, thì chúng con cũng xin thưa rằng HĐGMVN trong khoá họp tháng 10/2007 vừa qua đã đề ra chủ trương là Giáo hội Việt Nam phải tự lập và tự trọng trong vấn đề hoạt động bác ái xã hội. Chúng con dựa vào nội lực của cộng đồng tín hữu Việt Nam bởi vì người Việt Nam phải lo giải quyết lấy những vấn đề của mình. Cho nên, chính ở trong tinh thần đó, chúng con hô hào tất cả những tín hữu trên toàn quốc ý thức về các vấn đề xã hội và cùng nhau đóng góp công sức cũng như tiền của và các khả năng khác để lo giúp đỡ các anh em nghèo khổ, bệnh tật hay bị thiệt hại vì thiên tai. Còn nếu các tổ chức quốc tế đóng góp cho những hoạt động này thì chúng con nghĩ rằng chúng con sẵn sàng đón nhận tất cả những sự trợ giúp của các tổ chức đó.


Chúng con nghĩ rằng Giáo hội Việt Nam hiện nay với 6 triệu tín hữu, với 40 giám mục, 3.300 linh mục triều dòng và 16.000 tu sĩ nam nữ cũng như 57.000 giáo lý viên trong 2.500 xứ đạo có các ban mục vụ và hội đồng giáo xứ, và gần 500.000 đoàn viên thuộc các hội đoàn Công giáo Tiến hành. Đó là nguồn nhân sự lớn lao nếu chúng ta động viên được tất cả để cùng thực hiện theo gương Chúa Giêsu hoạt động để diễn tả lòng bác ái, tình yêu thương rộng lớn cho mọi người. Hơn nữa, chúng con cũng phải kể thêm là chúng ta đang có khoảng 1 triệu tín hữu hải ngoại là những người Việt Nam và trong số đó đặc biệt có khoảng hơn 600.000 tín hữu ở Hoa Kỳ, với hơn 1.000 linh mục và 2.000 tu sĩ ở khắp các châu lục. Đây cũng là nguồn nhân lực có thể giúp đỡ cho Giáo hội Việt Nam rất nhiều qua việc đóng góp các ý kiến, các tài năng.


Quả thật, trong thời gian vừa qua, cộng đồng Việt Nam hải ngoại không phải chỉ đóng góp về nhân lực mà còn đóng góp về tài lực và vật lực rất nhiều. Qua các trận bão, nạn lụt cũng như trận rét độc hại vừa qua, chúng con đã nhận được sự giúp đỡ rất lớn lao của các cộng đồng hải ngoại, và số tiền đó trong mấy năm vừa qua đã lên đến hàng chục tỉ đồng Việt Nam.


Ngoài ra, chúng con cũng nghĩ rằng không phải hoạt động bác ái xã hội chỉ dành riêng cho những người tín hữu, mà người dân Việt Nam vốn trọng tình trọng nghĩa trọng đức, họ rất sẵn lòng cộng tác với những người tín hữu Công giáo để lo cho những hoạt động này. Chúng con thấy trong những cuộc lạc quyên trên báo chí hoặc trên truyền hình đã minh chứng rằng người Việt Nam rất quảng đại trong các hoạt động từ thiện. Và nếu người Công giáo chúng ta làm tốt thì các anh em lương dân sẵn sàng đóng góp công sức, tiền bạc cho các hoạt động của Giáo hội Việt Nam.


- Đức ông Phêrô Nguyễn Văn Tài: Xin hết lòng cám ơn cha đã cho thính giả Việt Nam của đài Chân lý Á châu có một cái nhìn về tình trạng hiện nay của UB BAXH thuộc HĐGMVN và đồng thời giúp họ ý thức về những vấn đề, những thách đố, cũng như những chương trình, những dự kiến trong tương lai. Hy vọng rằng mỗi ngày một ít, người tín hữu Việt Nam cũng như đồng bào Việt Nam ý thức hơn về vấn đề chia sẻ, sống làm sao để hỗ trợ cho nhau, giúp nhau cùng nhau tiến lên để xây dựng đất nước, xây dựng môi trường sống của mình mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Một lần nữa, thay mặt cho các thính giả của đài, xin hết lòng cám ơn Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn.


- Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn: Chúng con xin cám ơn cha và cám ơn tất cả quý vị thính giả đã nghe đài, và xin cha cũng như tất cả anh chị em cầu nguyện cho chúng con để tất cả mọi người chúng ta trở thành những nhân chứng đích thực của tình bác ái Đức Kitô và mang tình yêu rộng lớn ấy đến cho mọi người.

 

Radio Veritas

Mục lục

 

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

 

MẸ ƠI ĐOÁI THƯƠNG

 

Những ngày cuối tháng tư, đầu tháng năm, tháng Hoa Tôn Vinh Mẹ Maria, trời nhiều mây, ảm đạm, u ám. Sài gòn có lúc nắng yếu, có lúc có mưa, và có cả mưa to. Việt Nam đang giao mùa.

Đầu tháng Hoa và trời u ám, làm tôi nhớ đến bài hát thuở còn rất nhỏ tôi vẫn thường hát, và hầu như giáo dân Việt Nam khắp nơi đều hát trước ngày 30-4-1975, đó là bài:

“Mẹ ơi đoái thương xem nước Việt Nam

Trời u ám chiến tranh điêu tàn

Mẹ hãy giơ tay ban phúc bình an

Cho Việt Nam qua phút nguy nan”

Sau nầy, tôi biết, bài hát nầy của Nhạc sĩ Hải Linh, chỉ vỏn vẹn 4 câu như thế mà đã trở thành lời khấn nguyện sốt sắng của bao tâm hồn tín hữu Việt Nam của cả hai miền Nam Bắc- nếu không nói là ở miền Nam hát nhiều hơn.

Thế rồi sau ngày 30-4-1975, tôi không còn nghe chỗ nào hát bài nầy nữa. Và quả thật, đã 33 năm rồi, bài hát nầy hầu như được cất vào kho tàng những bài thánh ca cổ, đến nỗi, trong tất cả các tuyển tập Thánh ca, trong những sách hát Phụng Vụ cộng đồng, không còn thấy bóng dáng. Và hơn thế nữa, nếu có một ông bà già sốt sắng nào đó cất lên bài ca nầy, thì cả thế hệ trẻ thừ 40 tuổi trở xuống nghe như là một ca khúc lỗi thời hay xa lạ… Nói thế chứ thật ra, cả già cả trẻ, cũng rất hiếm người hát lại bài nầy- hát riêng trong lòng, hát trong giờ kinh gia đình mà cũng không hát, huống nữa là hát trong nhà thờ, hát cộng đồng, hát khi đi kiệu… Tại sao không hát nữa?

Có lẽ do cái cảm nghĩ rằng chúng ta đang sống trong một đất nước thống nhất một giãi sơn hà, với một nền hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc đã chiếm choán hết cả cái suy tư của giáo dân Việt Nam, và cho rằng bài hát ấy không còn hợp thời với thời kỳ này nữa, chỉ nên hát trong thời kỳ chiến tranh mà thôi. “Trời u ám, chiến tranh điêu tàn” mà!

Có thể tôi cũng đồng tình với suy nghĩ ấy, nhưng tôi không dám quyết rằng, Nhạc sĩ Hải Linh được linh hứng viết bài nầy chỉ cho thời kỳ chiến tranh bằng bom đạn, súng pháo, xe tăng, phi cơ và rocket mà thôi. Vì ai dám quả quyết rằng không còn chiến tranh, hoặc chúng ta đang sống trong một nền hòa bình thật?  Tôi thì không.

Không còn chiến tranh sao? Hòa bình rồi sao?

Tôi nghĩ, bao lâu nhân loại chưa  thấm nhuần tinh thần của Tin Mừng để tìm cho ra sự bình an đích thực mà Chúa Giêsu mang đến, thì hòa bình mãi  mãi là một khát vọng, dứt khoát không thể là một thực tại trên trần gian nầy.

Hòa bình trên trần gian là một “hòa bình ảo” làm khúc xạ thị giác, tri giác và cả tim óc con người, làm cho con người quên mất cuộc chiến tranh nội tại tàn khốc điêu linh trong tâm hồn tín hữu. “Hòa bình ảo” ấy lại là một quả bom nguyên tử vô thanh, nổ lặng nổ thầm như liều thuốc phiện của âm mưu ma quỉ có độc tính cực kỳ  nguy hiểm, nấp sâu dưới nhãn hiệu độc lập tự do, ru con người ngủ say  hạnh phúc trong cái hạnh phúc đời nầy mà tưởng như là hạnh phúc thật để rồi không cần phải đi tìm một hạnh phúc nào khác.

Không còn chiến tranh sao? Hòa bình rồi sao?

Vẫn còn đấy chứ! Cuộc chiến tranh mới với loại vũ khí tinh vi đến nỗi con người ta không nghe thấy tiếng nổ kinh hồn, không nhìn thấy khói súng mù mịt, không thấy máu lệ thương tích, không có cảm giác đau đớn tang thương nhưng lại là cảm giác ngọt ngào êm ái dễ chịu nếu không nói là sung sướng cực lạc.

Trong cuộc chiến tranh mới, những quả bom nguyên tử nay đổi tên thành bom  “hưởng thụ”, đang nổ tung một nền đạo đức lâu đời, nổ lệch liệt cán cân công lý, nổ tan tành cái nhân nghĩa lễ trí tín của con người, nổ tiêu luôn cả thuần phong mỹ tục, cả tam cương ngũ thường, cả tam tòng tứ đức, kể cả đức bác ái Kitô giáo nữa, huống là. Không có những cuộc thả bom đánh sập nhà thờ, nhưng đền thờ nơi các tâm hồn tang hoang vì hạnh phúc ảo.

Họng súng aka xưa với vài viên đạn đồng bé bé, nay đã thành họng súng khổng lồ ở những tụ điểm ăn chơi, những khu rửa tiền tham lam bất chính, đầu tiên là dành cho những ông lớn, những đại gia, dần dà dành cho cả một thế hệ trẻ, để rồi họng súng ấy nuôt chửng từng tên một, rồi từng lớp người, từng thế hệ, cả tương lai.

Chất độc màu da cam đang rãi khắp các vũ trường với bia cao cấp, với rượu ngoại đắt tiền, với thuốc lắc, kích động biến dạng người thành cả một bầy đười ươi sống lại thưở thời ăn lông ở lỗ… Không có nhân tính. Chỉ có thú tính như đã chủ trương “cốt khỉ hoàn cốt khỉ”, không có đời sau, cũng chẳng có linh hồn.

Những chiếc xe tăng chở những khẩu đại bác thời trang từ nền văn minh duy vật tới làm mất cái nhân đức đoan trang, cái nết na, mở đường cho địch tấn công thẳng vào cung điện của đức khiết tịnh không người canh giữ. Bạn trẻ tự đánh mất cái hồn nhiên trong tinh thần khó nghèo phúc âm, làm vỡ nát cái đáng giá ngàn vàng văn hiến từ nghìn xưa ông cha để lại. Đức Khiết Tịnh Ki tô giáo bị pháo kích bởi làn đạn sống thử tiền hôn nhân và cả trong hôn nhân. Cả những người lớn tuổi, cũng không còn quí trọng đức đoan trang bằng sự đua đòi khoe nhan khoe sắc. Ấy vậy, bao nhiêu thanh niên nam nữ ở tuổi học sinh đã thất trận đành phải làm phụ nữ  khi chưa kịp là thiếu nữ với một tuổi thanh xuân trong trắng. Bao nhiêu gia đình thất trận vì những viên đạn đồng của trào lưu “ tìm lại chính mình” nơi những cuộc truy hoan ngoài hôn nhân rồi dẫn đến sự tan vỡ của cuộc hôn nhân mà Chúa đã chúc phúc để đổi lấy một chứng từ ly dị…mà không cảm thấy đau đớn tiếc xót gì về tình phụ mẫu tử, về trách nhiệm.

Không còn chiến tranh sao? Hòa bình rồi sao?

Cuộc chiến tương tàn giữa cha mẹ và con cái còn khốc liệt hơn. Cha Mẹ dành quyền sống thoải mái cho thỏa mãn cuộc đời vui thú xác thịt nên đã gài loại mìn tránh thai cực nhạy, hoặc bắn chết  con mình khi chúng hãy còn trong trứng nước bằng những loại vũ khí sát nhân tại chỗ: dao, kéo, kiềm, bao ny lông, xọt rác…

Sự giả dối ngự trị khắp các tòa nhà đồ sộ, ngự trị trong cõi lòng của những con người tưởng chừng như là mẫu mực về trách nhiệm với vận mệnh của nhân loại, của đất nước, của thế hệ chuyển tiếp, thế hệ kế thừa…không phải là những quả bom làm chết ngạt cả một tương lai nhân loại, tương lai đất nước đấy sao?

Cuộc chiến giữa tinh thần Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô và trào lưu thế tục phủ nhận sự can thiệp của Thiên Chúa càng khốc liệt hơn nơi các gia đình tín hữu: chấp nhận thất trận để bỏ lễ ngày Chúa Nhật; đầu hàng trước sự quyến rủ của những thực tại phù du để buông bỏ lề luật Thiên Chúa; chấp nhận bỏ giáo hội mà đi theo tiếng gọi của một giáo phái ẩn danh nào đó chống lại các giáo sĩ tục hóa; chấp nhận bội ước với lời hứa rửa tội “từ bỏ các việc của ma quỉ”; chấp nhận thất trận trên mặt trận văn hóa công giáo để cho những phong cách trần tục luồn lách vào đến tận nội cung…

Không còn chiến tranh sao?

Vẫn còn đấy. Trong cuộc chiến đấu vì Nước Trời, kẻ thù của Nước Trời luôn tuyên chiến với chúng ta mọi lúc, mọi nơi- nhất là lúc ta tưởng rằng mình đang đạo đức, nhất là những người đạo đức, nhất là những người có trách nhiệm giáo dục đạo đức. Cuộc chiến tấn công tâm hồn đền thờ Chúa Thánh Thần diễn ra càng lúc càng tinh vi và càng nên cực kỳ nguy kịch trong giai đoạn thế giới được gọi là văn minh nhất lịch sử nhân loại. Như vậy, không thể nói không chấp nhận cuộc chiến, mà còn phải sẳn sàng chiến đấu và chiến thắng. Nhưng ai dám tuyên bố rằng “tôi sẽ chiến thắng’ nếu không nhờ đến sức mạnh của Thiên Chúa, không nhờ vũ khí của giới răn Tin Mừng, sự phù trợ của Chúa Thánh Thần- Đấng ban sức mạnh,  và sự cầu bầu của Nữ Vương Thiên Quốc?

 

“Mẹ ơi đoái thương xem nước Việt Nam

Trời u ám chiến tranh điêu tàn

Mẹ hãy giơ tay ban phúc bình an

Cho Việt Nam qua phút nguy nan”

Thiết tưởng, không nên sống mãi trong một nền “hòa bình ảo” do lầm tưởng như vậy nữa, và cũng không nên cất giấu mãi bài hát nầy trong kho lịch sử thánh ca nữa. Bài hát ngắn ấy, lời nguyện tắt ấy, có thể nói, hôm nay, còn mang tính thời sự hơn bao giờ hết, nếu nhìn toàn cảnh thế giới, và nhất là toàn cảnh Việt Nam trong một thực trạng  đang đi ngược lại với Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, đang chống lại Thiên Chúa, chống lại sự nghiệp của Thiên Chúa và chống lại mỗi  người con Việt Nam của Thiên Chúa. Đã đến lúc phải nhìn rõ một thực trạng: cuộc chiến tranh hôm nay, ngay lúc nầy, không phải là cuộc chiến làm thiệt mạng vài trăm ngàn binh sĩ, mà làm tử vong cả triệu triệu tấm linh hồn-trong đó , có thể có tôi, có bạn?

Xin cảm ơn cố Nhạc Sĩ Hải Linh đã nhắc nhớ giáo dân Việt Nam luôn biết chạy đến cùng Mẹ Maria Nữ Vương, mọi ngày trong cuộc chiến tranh tâm linh trên dương trần, trong niềm tin tưởng Mẹ “giơ tay ban phúc bình an, cho Việt Nam qua phút nguy nan”.

Lạy Mẹ Maria, Tháng Hoa nầy, chúng con tôn vinh Mẹ. Xin Mẹ cầu cho chúng con theo ý cầu nguyện mà Chúa Giêsu dạy “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”, trong cuộc chiến đấu vì Nước Trời của chúng con. Chúng con dám tin Đức Giêsu Kitô Toàn Thắng, Trái Tim Mẹ toàn thắng, sẽ cho chúng con toàn thắng.

A men

Pm. Cao Huy Hoàng

Mục lục

 

 

ĐỨC MẸ FATIMA

 

ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI FATIMA 1917

 

Ba Trẻ Lucia, Jacinta và Phanxicô là ba em bé chăn chiên thuộc gia đình nghèo làng quê Fatima, nước Bồ Đào Nha. Các trẻ em này thuộc giáo phận Leiria. Hàng ngày các em được gia đình, cha mẹ trao phó việc dẫn đoàn súc vật: chiên, cừu đi ăn cỏ ở các vùng đồi núi quanh đó. Các em thường có thói quen sau khi để bầy súc vật ăn cỏ, liền qùi gối trên bãi đất trống đọc kinh, lần chuỗi mân côi chung với nhau. Mùa Xuân năm 1916, một thiên thần đã hiện đến ba lần và báo trước về các lần hiện ra của Đức Mẹ.

 

Vào mùa hè năm 1917 lúc đó thế chiến thứ nhất đang tiếp diễn, ngày 13 tháng 5 năm 1917, các em đi chăn dẫn đàn vật tại thung lũng Cova da Iria, một nơi có nhiều cây sồi và cây ôliu. Trong khi các em đang sốt sắng đọc kinh, lần chuỗi mân côi, lúc gần giữa trưa, một luồng chớp chói lòa làm các em bỡ ngỡ, kéo hoàn toàn sự chú ý của các em về những ngọn cây trên đồi Cova da Iria. Một Người Phụ Nữ sáng láng hiện ra, Bà ấy xin các em cầu nguyện cho những người tội lỗi ăn năn trở lại, chiến tranh sớm kết thúc.

 

Đức Trinh Nữ Maria xin các em hãy trở lại vào các ngày 13 trong những tháng sau đó. Sứ điệp của Đức Mẹ kêu gọi sám hối, lần hạt Mân Côi, và dâng hiến thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ. Lần nào hiện ra, Đức Mẹ cũng yêu cầu các em hãy lần chuỗi hằng ngày. Mẹ còn dạy các trẻ một lời nguyện để thường xuyên dâng lên Thiên Chúa các biến cố đời sống, nhất là các hành vi khổ chế và hy sinh của các em:

 

 “Lạy Chúa Giêsu, việc này con xin vì lòng mến Chúa để cầu cho các tội nhân trở lại, và đền tạ những xúc phạm người ta đã gây ra cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria.”

 

 Thiếu Nữ dặn các em hãy trở lại nơi này vào ngày 13 mỗi tháng. Theo lời Thiếu Nữ căn dặn, các em tới đó và được nhìn thấy Thiếu Nữ hai lần sau đó vào ngày 13 tháng 6 và ngày 13 tháng 7. Ngày 13 tháng 8, nhà cầm quyền địa phương ngăn cản các em không cho tới Cova da Iria, nhưng Thiếu Nữ đã hiện ra với các em vào ngày 19. Ngày 13 tháng 9, Thiếu Nữ xin các em lần hạt Mân Côi để cầu cho chiến tranh sớm kết thúc. Ngày 13 tháng 10, Thiếu Nữ hiện ra và xưng mình là Mẹ Rất Thánh Mân Côi.

 

Mẹ mời gọi các em cầu nguyện và làm việc đền tạ. Lần này, một hiện tượng rất lạ đã xảy ra làm rúng động mọi người. Chính quyền, dân chúng và các nhà báo chứng kiến hiện tượng gọi là Mặt Trời múa, hay thái dương như rơi khỏi bầu trời và lao xuống đất. Ngày 13 tháng 10 năm 1930, sau nhiều năm điều tra, xác minh và cầu nguyện, tìm hiểu, Đức Giám Mục Leira đã công nhận chính thức việc Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ tại đồi Cova da Iria, Fatima, Bồ Đào Nha và cho phép tổ chức các việc đạo đức để sùng kính Đức Maria Mân Côi nơi Mẹ đã hiện ra vào năm 1917.

 

SỨ ĐIỆP VÀ MỆNH LỆNH FATIMA

 

 Đức Mẹ đã hiện ra đúng như lời Mẹ loan báo trước, và sự kiện thái dương như muốn rơi xuống đất, làm khiếp kinh hồn vía mọi người, đã minh chứng quyền năng của Thiên Chúa. Qua biến cố lạ lùng như thế, Mẹ Maria Rất Thánh Mân Côi kêu mời nhân loại hãy ăn năn sám hối. Sứ điệp của Fatima là hãy cầu nguyện cho các tội nhân, lần chuỗi Mân Côi và sám hối. Ngày 13 tháng 10 năm 1917, Đức Mẹ dạy: “Mẹ đến kêu nài các tín hữu hãy lần hạt Mân Côi. Mẹ mong ước nơi đây có một nguyện đường tôn kính Mẹ. Nếu người ta cải thiện đời sống thì chiến tranh sớm kết thúc.”

 

Đức Mẹ đã hiện ra với ba tre, để qua các em, Mẹ nhắn nhủ nhân loại siêng năng cầu nguyện, năng lần chuỗi Mân Côi và thống hối ăn năn. Mẹ đã trao cho ba trẻ nhiều bí mật và căn dặn các em sống thánh để cầu nguyện cho những kẻ có tội và cứu vãn thế giới.

 

Được chiêm ngưỡng Đức Mẹ hiện ra, ba trẻ Lucia, Jacinta, Phanxicô đã sống theo ý Chúa, tuân lời Đức Mẹ. Chúa có con đường của Ngài và Ngài dọn chỗ cho con người tùy lòng xót thương của Ngài. Phanxicô được nhìn thấy Đức Mẹ, nhưng không được nghe lời Đức Mẹ nói, đã qua đời ngày 04 tháng 4 năm 1919, Giacinta qua đời ngày 20 tháng 2 năm 1920. Chúa để Lucia sống trong tu viện kín nhiều năm nữa, trước và sau khi bí mật được công bố. Ba trẻ đã được hạnh phúc chiêm ngưỡng và nghe lời Đức Mẹ chỉ bảo, dạy dỗ. Với sứ điệp Fatima, Mẹ Maria Rất Thánh Mân Côi muốn nói lên một sự thật tuyệt vời: con người đang hư đi, thế giới đang dần xa Thiên Chúa, họ chỉ có thể được cứu vãn bằng những phương thế mà Mẹ dạy. Đức Mẹ đã truyền phải thực hiện 3 mệnh lệnh Fatima để cứu nhân loại và cứu các linh hồn. Ba Mệnh lệnh đó là:

 

1. Ăn năn đền tội, cải thiện đời sống

2. Tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ

3. Lần Chuỗi Mân côi

 

 BIẾN CỐ FATIMA VÀ ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ II

 

Ngày 13/5/1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bị một thanh niên người Thổ Nhĩ Kỳ tên là Mehmet Ali Agca 23 tuổi ám sát hụt tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Mehmet Ali Agca đã bắn 4 phát súng 9 ly về phía Đức Thánh Cha lúc đó đang đứng chào dân chúng và Ngài đã ngã ra phía sau. Viên đạn thứ nhất trúng bụng, viên thứ 2 trúng tay trái, viên thứ 3 trúng ngực một bà Mỹ 60 tuổi, và viên thứ 4 trúng tay người phụ nữ Jamaica 21 tuổi. Lý do tại sao Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bị ám sát vẫn còn nằm trong vòng bí mật. Mehmet Ali Agca, sinh ngày 9 tháng 1 năm 1958, đã bị kết án tù chung thân về tội mưu sát ĐTC Gioan Phaolô II.

 

Trong Đại Năm Thánh 2000, ĐTC đã xin tổng thống Ý tha cho người sát hại Ngài, và Ali Agca sau 20 năm trong tù đã được Ý trao trả cho Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 2001, và tiếp tục ở tù ở quốc gia của mình vì tội sát hại một vị giám đốc nhật báo vào năm 1979.  Ngài đã vào tù thăm người đã bắn Ngài và đã tha thứ cho anh. Ali Agca có lẽ đã cảm kích cử chỉ của Đức Thánh Cha nên đã quỳ xuống hôn tay Ngài cách trân trọng.

 

Chính anh Ali Agca người đã bắn những cú chí tử vào Đức Gioan Phaolô II, đã  hết sức ngạc nhiên, tại sao bị thương như vậy, mà ĐTC đã không chết. Việc ĐTC không chết, là vì có bàn tay Đức Mẹ Fatima. Chính ĐTC đã công nhận như vậy và ngày 12-13/05/1982, ngài đã đến Fatima hành hương, để tạ ơn Đức Mẹ và tuyên bố rõ ràng: "Đức Mẹ Maria đã cứu sống tôi".

 

Để ghi nhớ muôn đời, một trong các viên đạn được lấy ra lúc giải phẫu cho ĐTC,  tại Bệnh viện Bách Khoa Gemelli ở Roma, đã được ghép vào triều thiên của Đức Mẹ tại Đền Thánh Fatima trong dịp ĐTC đến hành hương tạ ơn 13/05/1982. Trong cuộc hành hương Năm Thánh 2000, ĐTC còn để lại một kỷ niệm khác nữa: đặt dưới chân Mẹ chiếc nhẫn Giám Mục quí giá, do Đức Cố Hồng Y Stefan Wyszynski, Giáo chủ Ba lan và TGM Varsovie, tặng cho ngài khi được bầu làm Giáo Hoàng (16/10/1978). Còn chiếc giây lưng trắng bị đẫm máu trong vụ mưu sát tại Quảng trường Thánh Phêrô lúc 17giờ 10 phút ngày 13/05/1981, đã được để lại làm kỷ niệm tại Czestochowa, Đền Thánh quốc gia Ba Lan, nơi ĐTC đã đến hành hương nhiều lần trong những năm sinh sống tại Ba lan và cả sau khi đã làm Giáo Hoàng.

 

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã cho phổ biến chuỗi Mân Côi thứ 4, tức Chuỗi Sự Sáng thêm vào 3 chuỗi Mân Côi đã có từ lâu, có lẽ cũng xuất phát từ lòng tri ân Mẹ.

 

THẾ GIỚI SAU CÁI CHẾT CỦA CHỊ LUCIA

 

Chị Lucia là một nữ tu nổi tiếng được nhiều người biết đến nhất của thế giới hôm nay cũng như Mẹ Têrêsa Calcutta. Thế nhưng chị Lucia vẫn sống trong vâng lời và yên lặng, chu toàn công việc tầm thường hằng ngày trong Tu viện Camêlô ở Coimbra, Bồ Đào Nha. Chị không tìm cho mình được nổi tiếng ngoài công cộng, không bao giờ nói gì hơn những gì Mẹ Maria nói với chị.

 

Sự qua đời của chị là một dấu chỉ thời gian, nhất là chị qua đời vào ngày 13, ngày mà Đức Mẹ chọn để hiện ra mỗi tháng tại Fatima, có lẽ cũng là một dấu chỉ từ thiên đàng. Thế giới hôm nay đã xảy ra và đang đứng trước những biến cố lớn lao của chiến tranh, khủng bố, bệnh dịch, AIDS, thiên tai, bom nguyên tử, vi trùng, đặt bom nhà thờ và những giáo phái phản Kitô. Những gì sẽ xảy ra trên thế giới sau cái chết của chị Lucia vẫn tuỳ thuộc vào việc nhân loại thi hành các mệnh lệnh của Mẹ ra sao. Người Kitô hữu chúng ta cần ăn chay, cầu nguyện nhiều hơn nữa cho sự ăn năn, trở về với Thiên Chúa của nhân loại.

 

Bước vào ngàn năm thứ ba, thế giới chứng kiến sự ra đi của hai người phụ nữ nổi bật về nhân phẩm, một là Mẹ Têrêsa Calcutta, một phản ảnh của tình yêu Thiên Chúa giữa những người cùng khổ; người kia là chị Lucia phản ảnh sự vâng lời, khiêm nhường, đơn sơ của Mẹ Maria. Và một nhân vật có liên quan tới biến cố Fatima là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đang cần được mọi người cầu nguyện cho.

 

LT sưu tầm

Mục lục

 

 

“VỀ VỚI CHÍNH MÌNH”

 

 “VỀ VỚI CHÍNH MÌNH” thực đúng với tên dùng làm chủ đề trong hai đêm Canh Thức Mùa Chay đáng nhớ tại Trung Tâm Mục Vụ Giáo Phận năm 2008, được khai triển thành hai chủ đề rất cụ thể và thực tiễn, đó là ‘SỐNG TRUNG THỰC” và ‘SỐNG DẤN THÂN”

 

Có lẽ những dòng tâm sự này không đầy đủ, nhưng chứa đựng tâm tình tri ân về hai đêm canh thức tuyệt vời mà tôi là một người trẻ đã cảm nghiệm được, xin chia sẻ cùng các bạn. Giới trẻ chúng ta vẫn thường có ý nghĩ về việc “cấm phòng”, “tĩnh tâm” hay “canh thức” một cách thụ động tiêu cực. Phải chăng lại là một hình thức sáo mòn buồn tẻ, một cảm giác u uất nặng nề, những bài giảng dài kinh kệ lê thê ? Dường như tôi đón nhận hai đêm canh thức ấy với một tâm trạng thờ ơ, lạnh nhạt xen lẫn chút tò mò, hiếu kỳ nữa. Nhưng thật không ngờ, hai đêm đáng nhớ ấy đã đọng lại nơi tôi những điều hoàn toàn ngược lại...

 

“Sống Trung Thực” là lời mời gọi đầu tiên khi chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình “Về Với Chính Mình”. Bước vào cổng Trung Tâm Mục Vụ, mỗi tham dự viên được phát cho một cái mặt nạ. Ai cũng thắc mắc không biết đi canh htức mà đeo mặt nạ để làm gì? Làm sao mà cầu nguyện với cái mặt nạ này được ? Tuy nhiên khi đeo mặt nạ vào rồi, với những lời gợi ý đơn sơ cụ thể kèm với lời cầu chân thành, những thắc mắc dần được giải mã. Khi mọi người cùng đeo mặt nạ để múa hát, tôi không còn nhận ra khuôn mặt thật của người bên cạnh nữa. Và chắc chắn những người khác cũng chẳng biết con người thật của tôi là ai bên trong cái mặt nạ tôi đang mang. Trong bầu khí thinh lặng của đêm canh thức, hơn 8000 tham dự viên được ánh sáng của Kitô soi dẫn đã dần nhận ra những sự giả dối, giả tạo, giả hình, giả trá, giả nhân giả nghĩa… trong cuộc sống đầy dẫy những cạm bẫy, lo toan và cám dỗ này. Tôi không khỏi giật mình khi nhận ra gương mặt của mình trong hàng loạt điều giả dối ấy và dường như lúc đó, Chúa đã cho tôi kịp nhìn ra chiếc mặt nạ của chính bản thân mình. Chiếc mặt nạ mà đã lâu lắm rồi gắn chặt vào da thịt tôi như một phần tất yếu của cuộc sống. Trong không gian tĩnh lặng của những giây phút xét mình và ăn năn ấy, tôi cảm thấy mình thật có lỗi! Có lỗi với Chúa, có lỗi với anh em và có lỗi với chính bản thân mình. Tôi đã đóng kịch với tất cả. Tôi đã không sống trung thực. Tôi là một loại người biệt phái giả hình trong thời buổi hôm nay. Cảm ơn chiếc mặt nạ, một trò chơi của trẻ con, nhưng đã được người dẫn chương trình sử dụng cách khéo léo trong đêm canh thức đầu tiên để giúp chúng tôi thật sự “về với chính mình”!

 

Hành trình “Về Với Chính Mình” không dừng lại ở những cảm xúc buồn bã, ăn năn đó. Hình ảnh những chứng nhân sống động đã vực dậy tinh thần bi quan thụ động, và làm sống lại một niềm tin mãnh liệt đến không ngờ nơi mỗi người. Tôi chợt nhận ra canh thức không phải để quay về với những thiếu sót lầm lỗi của quá khứ rồi tự dày vò mình, mà điều chính yếu là dừng lại để biết mình đang ở đâu, rồi nhìn về phía trước với một niềm tin và hy vọng cho một sự đổi thay tốt hơn. Chính họ, những người anh chị em kém may mắn lại là những chứng nhân cho chúng tôi thấy lòng tin của họ được minh chứng hùng hồn qua cung cách sống đạo giữa lòng đời.

 

Một Thế Vinh kiệt xuất, một chàng thanh niên chỉ còn một cánh tay trái cùng một lúc chơi hai nhạc cụ, đã làm đẹp cuộc đời bằng những giai điệu tha thiết yêu thương từ chiếc đàn ghita cũ kỹ và âm thanh du dương của chiếc Harmonica trong bài  thánh ca : “Con Vẫn Trông Cậy Chúa” dường như đã hớp hồn tất cả mọi người tham dự. Cuộc đời của anh cơ cực như thế. Tuổi thơ côi cút nghèo khổ của anh xám xịt như vậy. Thế mà anh vẫn say sưa xác tín : “Con vẫn trông cậy Chúa, dù cho, dù cho…”

 

Một Phương Dung người con gái gốc Đà Lạt nhẹ nhàng bay bổng với bài hát “Cát Bụi”. Cô ca sĩ nhỏ nhắn dễ thương chống cặp nạng từng bước tự mình lên làm chứng bằng tiếng hát của mình đã nói lên tất cả rằng dù thân phận con người chỉ là cát bụi, nhưng lại vô cùng quý gía trước Thiên Chúa. Chính vì hạt bụi đó mà con Thiên Chúa đã đích thân xuống trần để nâng niu cứu vớt không bỏ một thân phận mong manh đau yếu tật nguyền nào khỏi vòng tay yêu thương của Người. “Sống Trung Thực” là thấy rõ giá trị của chính mình để sống vui, sống hạnh phúc, dù cho, dù cho…

 

Một Thủy Tiên mượt mà tha thiết trong bài “Tình Ca Muôn Thuở” làm sống dậy cả cầu trường bằng những tràng pháo tay tưng bừng và bằng cả những giọt nước mắt. Không xúc động sao được khi cô ca sĩ chuyên hát nhạc Trịnh chia sẻ những khó khăn mà cô đã vượt qua. Tuổi thơ lớn lên bị tật kéo xệch mờ môi. Nói còn chưa được, huống gì hát. Thế mà với kiên nhẫn khổ luyện và tin tưởng vào ơn phù giúp của Thiên Chúa, cô đã vượt qua “số phận” Không những nói thạo mà cô còn hát rất hay, rất tròn lời, phát âm rất chuẩn. Cô hát bằng cả trái tim với niềm xác tín rằng Chúa vẩn yâu thương cô, dù cho, dù cho…

 

Tôi đã khóc. Khóc vì thấy mình quá nhỏ bé và tầm thường trước những chứng nhân đó. Khóc vì đức tin của mình yếu hèn, dễ dàng bỏ cuộc và buông xuôi tất cả khi đối diện với những khó khăn thách đố của cuộc đời. Họ đấy. Chính những Thế Vinh hiền lành, Thủy Tiên mượt mà, hay Phương Dung tha thiết đầy sức sống ấy đã khơi dậy tận đáy lòng tôi ngọn lửa yêu thương và phó thác mà tưởng chừng như đã lụi tắt từ lâu lắm rồi. Bên cạnh những chứng nhân sống động và thánh thiện ấy là những lúc trầm lắng nguyện cầu và suy tư trên chiếc mặt nạ mỗi người đang cầm trân tay. Giây phút lắng đọng hiếm hoi trong cuộc sống ồn ào bụi bặm bon chen này. Nhịp điệu của Đêm Canh Thức hoà trộn nhuần nhuyễn với nhau, nào múa, nào hát, nào chia sẻ, nào lắng nghe Lời Chúa, nào trầm tư… cứ tuần tự hoán đổi đã mang đến cho tôi một cảm giác vô cùng thoải mái và tràn ngập tình yêu thương vô bờ. Cuối cùng mỗi người tham dự được mời gọi đi đến đích điểm của Đêm Canh Thức là thực hiện một hành động mang tính biểu tượng : Cởi bỏ chiếc mặt nạ đang mang trên  người, quyết tâm cởi bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới trong Đức Kitô. Sống trung thực với mình, với Thiên Chúa, và với tha nhân. Thực hiện xong hành động nay, tôi thấy nhẹ nhõm cả người. Đã đến lúc phải chia tay những cảm giác lạ lẫm và phấn khích đó để hẹn vào đêm sau với chủ đề “Sống Dấn Thân” trong hành trình “Về Với Chính Mình”.

 

Lần này không còn tâm trạng lo âu như đêm canh thức đầu tiên mà thay vào đó là một sự hồi hộp phấn khởi chờ đợi. Tôi rút kinh nghiệm tranh thủ đi từ rất sớm nhưng không ngờ đã có hàng ngàn người còn đến sớm hơn tôi, dẫu rằng họ ở những vùng xa xôi lắm chứ chẳng hề thuận tiện như tôi. Một thoáng băn khoăn và lạ lẫm khi những ai tham dự đều được phát hai chiếc đũa và một sợi dây đỏ. Để làm gì và sử dụng ra sao là câu hỏi lớn nhất được nhìn thấy rõ trên gương mặt tất cả mọi người. Không để mọi người chờ lâu với tâm trạng xôn xao về hình thức tĩnh tâm mới này, vị linh mục đồng hành dẫn đưa mọi người đến với mầu nhiệm tình yêu tình yêu Thiên Chúa từ cây Thập Giá, và đôi đũa vô tri kia đã bắt đầu biết nói. Giây phút  lắng đọng thiêng thánh khi mỗi người cầm đôi đũa trên tay suy tư nguyện cầu. Cây Thập Giá luôn có hai chiều không thể thiếu. Mối tương quan chiều dọc giữa con người chúng ta với Thiên Chúa và mối tương quan chiều ngang giữa con người với nhau gặp nhau trong điểm giao thoa nơi cây thập tự. Đức Kitô là trung gian giữa Thiên chúa và con người, và cũng là nơi con ngươi gặp gỡ nhau. Cả cộng đoàn gần 10 ngàn con người như chìm vào cõi thinh không, như đang đứng dưới chân đồi Golgotha ngước nhìn lên Thập Tự treo xác Chúa ngày nào vào giờ tử nạn. Mỗi người trầm lắng suy tư nguyện cầu trên đôi đũa đã kết thành hình thập tự với giải băng đỏ như máu thánh từ cây gỗ Thánh Giá tuôn trào rửa sạch tội lỗi thế trần. Cây Thánh Giá đũa trên tay các tham dự viên cứ giơ lên rồi lại hạ xuống theo lời ca điệu múa mang âm hưởng nhạc dân tộc như lột tả tất cả những tâm tình thiêng liêng còn ẩn chứa sâu xa nơi đáy lòng mỗi người. Bài học từ cây Thập Tự dạy chúng tôi về tình yêu, về sự dấn thân, và nhất là về mối giao kết giữa tất cả mọi người với Chúa và với nhau.

 

Đêm canh thức thứ hai với chủ đề “Sống Dấn Thân” lại bắt đầu sống dậy những tình yêu chân thành và tha thiết nhất khi những chứng nhân bắt đầu xuất hiện. Lần này là một Đức Phước cao to vạm vỡ, chứa đựng một lòng nhân từ và tính cách anh hùng, can đảm khi dám một mình chống chọi với ngọn lửa hung hăng để giữ lại một sinh linh bé nhỏ mà anh  chưa hề quen biết. Một con người gan lì, can đảm và anh hùng như thế, vậy mà vẫn ấp úng khi được mời lên làm chứng. Anh làm nhiều hơn là nói. Trong khi tôi và nhiếu người ngày nay nói hơn là làm. Thậm chí hành động còn đi ngược với lời nói nữa. Như thế thì làm sao trở thành chứng nhân cho Đức Kitô được? Khi hỏi về việc mình vừa làm, anh chỉ mỉm cười bẽn lẽn đáp : “Cũng bình thường thôi!”

 

Tôi chợt thấy xót xa khi một cô bé ngây thơ tuổi đời còn rất trẻ đã trải qua kinh nghiệm “khôn ba năm, dại một giờ” mà giờ đây cô trở thành người mẹ quá trẻ với đứa con không được cha htứa nhận. Khi bị người yêu phụ rẫy, trong giây phút tuyệt vọng nhục nhã ê chề, cô đã tính quyên sinh, và phá bỏ bào thai. Nhờ sự cảm thông của gia đình, nhờ bàn tay Thiên Chúa can thiệp qua những người có tâm lòng trắc ẩn cưu mang mẹ con cô. Đêm nay, cô đã vượt qua tất cả mặc cảm, mạnh dạn đứng lên làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, và gởi gấm sứ điệp đến các bạn trẻ “đừng yêu cuồng sống vội, đừng sống thử trước hôn nhân, đừng nhẹ dạ cả tin mà ân hận một đời!”

 

Tôi còn được gặp gỡ anh Nguyễn Văn Chiến. Lời chứng đơn sơ mộc mạc chân thành của anh lay động tâm hồn nhiều người. Ở tận cùng nỗi bất hạnh, trong hàon cảnh rất nghèo túng, anh vẫn giang rộng vòng tay đón nhận một đứa trẻ bị bỏ rơi để rồi nuôi nấng và chăm sóc cho bé được nên người như những trẻ thơ khác.

 

Tôi đã khóc. Khóc thật nhiều. Khóc cho những hiểu biết về Lời Chúa mà bấy lâu nay tôi cứ tưởng mình thông suốt nhưng thực tế chỉ là một khối rỗng tuếch không hơn không kém. Khóc về sự can trường của tất cả những chứng nhân. Chính họ đã hé mở cho tôi hiểu phần nào về sự hiệp thông trong đau khổ mà Chúa Giêsu đã chọn trong công cuộc cứu độ loài người. Những con người tưởng chừng như chỉ còn biết tìm đến cái chết để mau chấm dứt cuộc đời bất hạnh ấy trái lại là những người hăng say sống và trung thành với Chúa nhất. Còn riêng tôi, tôi có đủ mọi thứ trên đời, nhưng tự hỏi tôi có làm được gì xứng đáng để đáp lại Tình yêu Thiên Chúa bao la và tình yêu anh em tha thiết mà Chúa mời gọi tôi khi cầm cây Thập Giá đũa trên tay?  Tôi có chấp nhận mầu nhiệm đau khổ trong đời bằng cách “Sống Dấn Thân” như các chứng nhân để làm cho cây thập tự đời tôi trổ hoa cho đời cho người không?

 

Những điệu múa, lời ca trong hai đêm canh thức ấy như thúc giục và làm sống lại sự lạc quan và yêu thương nơi tất cả mọi người tham dự. Những “nhịp điệu đũa tre”  hay “bài ca mặt nạ” sẽ là những dấu ấn khó phai, và sẽ còn đọng mãi tận đáy lòng những đứa con yếu đuối và lạnh nhạt như tôi.

 

Hai đêm canh thức đã qua đi. Mỗi người ra về đều nhận được những phần thưởng thiêng liêng và vô hình mà Chúa đã trao ban cho lòng sốt sắng và yêu thương của tất cả mọi người. Sẽ có nhiều lắm những lời tri ân và cảm tạ vô bờ không chỉ dành riêng cho Chúa mà còn dành cho nhau, cho mỗi người. Xin cảm ơn tất cả các bạn đã cùng tham dự hai đêm huyền diệu ấy để trái tim của mỗi người cùng chung một nhịp đập và bừng cháy lên một tình yêu mãnh liệt, tha thiết. Xin tạ ơn Thiên Chúa là Cha Toàn năng đã dẫn lối và kết nối chúng con làm một trong sự hiệp thông và tình yêu vô bờ. Nguyện xin tình yêu Ngài luôn sống mãi trong tâm hồn chúng con và thôi thúc để chúng con can trường tiến bước trên con đường yêu thương và phục vu. Đó là hành trình “Về Với Chính Mình” để “Sống Trung Thực” và “Sống Dấn Thân” theo chân thầy Giêsu. Amen!

 

Cảm nghiệm Đêm Canh Thức 2008

Hải Linh

Theo tập san "Nhờ Mẹ đến với Chúa"

Mục lục

 

 

Sáng tạo trong đời sống

Có nhiều suy nghĩ về sáng tạo: biến chế, phát minh khám phá mới, đổi mới tân trang…

Nhưng dẫu thế, con người luôn cần vật liệu có sẵn, mới có thể biến chế làm ra cái khác, cái mới.

Sách Sáng Thế Ký thuật lại: Thiên Chúa sáng tạo mọi sự từ không thành có! ( 1,1-31). Một sáng tạo lạ lùng!

Trong đời sống hôm nay, con người chúng ta có sống cảm nghiệm được điều đó không?

1.Một người mẹ tâm sự: Tôi không biết đó có phải là phép lạ hay không. Nhưng tôi tin đó là một sáng tạo lạ lùng. Trước đây chín tháng, sau khi khám nghiệm, bác sĩ cho vợ chồng chúng tôi hay: có dấu hiệu thai nhi đang thành hình trong cung lòng người mẹ!

Chúng tôi vui mừng sung sướng và cũng lo âu hồi hộp, vì không biết kết qủa sẽ ra như thế nào. Rồi càng ngày bụng tôi càng nở phình ra to hơn, và sự chuyển động cựa quậy cũng càng nhiều hơn trong bụng tôi. Tôi cảm thấy đôi khi khó chịu. Nhưng không biết được những gì đang xảy diễn ra trong bụng dạ tôi.

Bỗng tới một ngày, thai nhi cựa quậy mạnh. Tôi đau bụng gần như ngất xỉu. Khi tỉnh dậy, một em bé cân nặng hơn hai kílô được bế đến đặt trên tay tôi. Em bé nhắm nghiền đôi mắt, miệng khóc kêu la đòi lòng mẹ. Dòng nước mắt vui mừng hạnh phúc tuôn trào từ đôi mắt lăn chảy trên gò má vợ chồng tôi. Một công trình sáng tạo lạ lùng đã được tạo dựng ngay trong bụng dạ tôi, giờ đây đang nằm trên đôi tay chúng tôi.

Em bé là hoa qủa của tình yêu vợ chồng tôi. Nhưng vợ chồng tôi lại không làm chế tạo ra em bé.

Em bé con chúng tôi không là kết qủa của một hỗn hợp hóa học hai yếu tố âm dương của cha mẹ cộng chung lại.

Không, không đơn giản như thế. Em bé không là một sản phẩm. Nhưng là một bộ máy sự sống có phát triển với tiến trình thành hình từ trong cung lòng mẹ, hiện tại đang mở mắt chào đời với tiếng khóc, và còn kéo dài trong thời gian tương lai. Sự sống phát triển đó, không ai là con người như chúng tôi có thể nặn chế làm ra được.

Hình dáng, tứ chi em bé cũng không có bản phác họa nào trước đó do bất cứ một họa sư, hay kỹ sư vẽ làm ra. Và vợ chồng tôi cũng không hề hay biết trước điều đó. Nhưng thân xác hình hài em bé là bản chính gốc có một không hai được sáng tạo thành.

Vợ chồng chúng tôi, có thể tự hào nói được, là người dự phần cộng tác vào công việc sáng tạo đó. Vâng, chúng tôi chỉ là người đón nhận từ Trời cao sự sống cùng với thân xác hình hài của con chúng tôi.

2. Một bạn trẻ nói: Tôi không biết đó có phải là một sự lạ hay không. Nhưng tôi cảm nhận và tin đó là một điều sáng tạo lạ lùng.

Chiếc xe hơi chạy được cần phải có dầu xăng, chất đốt nhiên liệu đầy đủ. Khi cạn xăng dầu,nhiên liệu chỉ ghé lại mở nắp bình chứa đựng bơm chất đốt nhiên liệu ở ngoài cây trạm bán xăng dầu.

Bạn trẻ chúng tôi muốn sống vươn lên, nên yêu chuộng điều gì mới lạ gây gợi ý thích hứng khởi. Nhưng khi nhiên liệu cho hứng khởi tâm hồn cạn khô, chúng xuống phải bơm lấy từ đâu?

Trong xã hội, có nhiều lời nói hình ảnh mầu sắc, nhiều chương trình quảng cáo trình diễn mới lạ hấp dẫn gây khích thích cùng gợi hứng. Nhưng những điều mắt thấy tai nghe này chưa có gì bảo đảm là lành mạnh cùng thỏa mãn cho tâm hồn con người có được hứng khởi mới vươn lên đâu. Trái lại nhiều khi lại gây ra hiệu qủa ngược lại: nhàm chán thất vọng!

Những lúc tinh thần chùng xuống, chất nhiên liệu tinh thần như sắp cạn khô, chỉ cần một lời khuyến khích chân thành của ai đó, một lời an ủi, lời công nhận gía trị thành tích việc làm của mình đến từ người khác, đủ khiến cho tinh thần phấn chấn vươn lên.

Những lời này tuy do người nào đó nói ra, nhưng đó lại là chất liệu từ Trời cao của Thiên Chúa gửi đến cho tinh thần con người. Lúc đó nhiên liệu như được bơm vào cho bộ máy tinh thần sống động lại.

3. Một đôi vợ chồng mới cưới bày tỏ tâm sự: Chúng tôi không biết có phải là phép lạ hay không, nhưng chúng nghĩ đó là một sáng tạo lạ lùng cho đời mình.

Hai chúng tôi, sinh ra lớn lên ở hai nơi xa nhau; đi học cùng làm nghề sinh sống hoàn toàn khác nhau, hoàn toàn xa lạ chưa bao giờ nghe nói về nhau bao giờ. Và cả hai cha mẹ chúng tôi cũng chưa bao giờ gặp mặt nhau nữa.

Trong dịp đi tham dự Đại hội giới trẻ thế giới 2005 ở Cologne, tình cờ chúng tôi quen nhau, khi cùng đến ghi tên lãnh túi Đại Hội. Qua câu chuyện đứng chờ đến phiên và sau đó trên đường về chỗ trọ, tình cảm thân thiện nảy sinh giữa chúng tôi.

Hai tuần sau Đại hội, chúng tôi liên lạc lại với nhau bằng điện thoại, vì chúng tôi ở cách xa nhau hằng trăm cây số. Cứ như thế tình cảm thân thiện biến thành tình yêu bao giờ mà chúng tôi không hay biết, cho đến khi bên nam ngỏ lời với bên nữ muốn cùng nhau xây dựng một tương lai gia đình mới.

Lúc đó chúng tôi cảm thấy không thể thiếu nhau trong đời sống. Và con đường đời sống chung có đà trớn xây dựng tiến về phía trước.

Bây giờ nghĩ lại con đường chung của mình, chúng tôi hỏi nhau: Tại sao hai ta lại có cảm tình thân thiện rồi tình yêu với nhau, mà không với người khác nào đó? Cả hai chúng tôi đều như người câm điếc, vì không tìm được câu trả lời cho câu hỏi của mình.

Nhưng chúng tôi tin, làn sóng tình yêu của chúng tôi bắt đã gặp được nhau. Làn sóng tình yêu đó ẩn hiện trong trái tim tinh thần, là sáng tạo lạ lùng do Đấng Tạo Hóa đã làm ra ký đặt vào đời sống chúng tôi. Và còn hơn thế nữa, Ngài đã nối mạng lại cho hai làn sóng bắt gặp được nhau.

4. Một người bày tỏ tâm tư: tôi không biết có phải đó là sự gì ngoài mức suy nghĩ của tôi hay không, nhưng tôi nghĩ đó là dấu hiệu diễn tả sự gì linh thiêng lạ lùng. “Catch the spirit - Nắm bắt lấy thần hứng!“ câu này tôi đọc thấy trên áo T- Shirt ( áo thung) của một bạn trẻ đi ngoài đường. Câu này thật cool và gợi suy nghĩ: Phải chăng người viết câu này, và có thể cả người đang mặc chiếc áo với hàng chữ này, đang có suy nghĩ về đời sống tinh thần? Và chúng ta có thể nắm bắt được thần hứng không?

Không, tôi không tin có thể làm được việc này. Vì thần hứng làm gì có hình hài vuông tròn, mầu sắc đen trắng, xanh đỏ... hay có thân xác như con người hay một loài vật nào đó mà có thể nắm bắt giữ lại được. Những gì xuất hiện trong tâm hồn, gợi hứng trong tâm trí như buồn vui, yêu ghét, giận dữ, phấn khởi hào hứng, ý tưởng mới lạ... Nào ai có thể nắm bắt giữ lại được, có chăng là cảm nghiệm được và diễn tả ra bằng lời nói, cử chỉ thái độ hoặc chữ viết thôi. Ai cũng có kinh nghiệm về tình yêu cha mẹ, tình yêu vợ chồng con cái, tình yêu quê hương đất nước. Tình yêu chỉ có thể cảm thấy thôi và không thể chiếm đoạt được như một đồ vật. Vì tình yêu vô hình. Cũng như không khí có đó và cần cho thiết cho sự sống. Không có không khí, sự sống sẽ tàn lụi và biến mất. Nhưng không khí lại vô hình vô sắc, vô thanh và luân chuyển không ngừng, nên cũng không thể bắt giữ lại được. Ong Nicodemo hỏi Chúa Giê su về Chúa Thánh Thần là ai, Ngài trả lời: Gió muốn thổi đâu thì thổi; khi gió thổi ta có thể nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và đi về đâu. Thần linh Thiên Chúa cũng vậy. Ngài ở trong những ai sinh ra bởi Ngài. ( Gioan 3,8).

Thần linh Thiên Chúa, Đấng là sự sống,tình yêu, sự sáng tạo cùng làn gió hơi thở gợi gây niềm hứng khởi cho tâm hồn cuộc sống con người.

Lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống 2008

Lm. Nguyễn Ngọc Long

Mục lục

 

BUỒN VUI NHỮNG CƠN SỐT !

Phận làm người chắc có lẽ ai ai cũng trải qua cái kinh nghiệm, cái trải nghiệm khi cơn sốt đến với mình. Đang khoẻ mạnh mà bỗng dưng bị sốt thì thật là mệt mỏi. Phải mất một thời gian thì người bệnh mới cảm thấy được bình phục hoàn toàn. Con người sống trong cuộc đời này không chỉ phải gánh chịu cơn sốt tự trong cơ thể gây ra nhưng còn bị tác động do những cơn sốt tự bên ngoài. Xã hội càng tiến bộ, kinh tế càng phát triển thì con người lại phải đương đầu với nhiều cơn sốt nữa. Những cơn sốt tự bên ngoài gây nên cho con người ấy chẳng theo quy luật gì cả, chúng vội vã đến rồi chúng cũng lại vội vã ra đi.

Cơn sốt trong cơ thể xảy đến làm cho con người buồn còn cơn sốt ở bên ngoài xảy đến thì ngược lại, nó làm buồn một số người nhưng nó lại trở thành niềm vui cho một số người khác. Cái bi đát, cái cay đắng của cuộc đời đó là những cơn sốt bên ngoài xảy đến đa số mang lại niềm vui cho người giàu còn mang nỗi buồn đến với người nghèo.

Con người trong xã hội ngày hôm nay phải luôn đối diện với 4 cơn sốt căn bản :

“SỐT ĐẤT” :

Người giàu ngày mỗi ngày được an cư trong những ngôi nhà biệt thự, nhà sân vườn rộng rãi thoáng mát, người nghèo cứ mãi ở trong túp lều tranh hay căn nhà cấp 3 ọp ẹp. Vì sao ? Vì giá đất nó không chịu nằm im một chỗ mà nó lại cứ tăng dần theo cơn sốt. Nghèo quá, cha mẹ để lại cho vài công đất thì lại bán đi để đắp đổi qua ngày. Mừng lại là đàng khác khi có người đến mua mảnh đất ruộng cạnh bên hông nhà. Bán rồi thì đất lại lên ! Cái nghèo lại cứ trở về với họ sau những lần “sốt đất”

“SỐT GAZ - XĂNG - DẦU” :

Đời sống thường ngày đều liên quan đến 3 anh chàng chất đốt này. Vì thế, đời sống chịu một sức ép rất lớn từ những chuyện giá cả của nó. Doanh nghiệp đổ cho nhà nước, nhà nước đẩy cho doanh nghiệp và cuối cùng người chịu thiệt thòi nhất vẫn là người dân mà thôi. Biết là nó gây khổ, gây phiền cho dân nhưng rồi giá cả nó cứ vội đẩy vội đưa để người nghèo ngày một thấp thỏm nhìn bảng giá.

“SỐT ĐIỆN” :

Vẫn thường huyênh hoang tự hào tự đắc là “Đất nước ta có đủ điện để xuất khẩu” như các phương tiện thông tin đại chúng thường rêu rao. Nhưng thực tế thì lại thiếu điện một cách hết sức trầm trọng để rồi ngày ngày người dân cứ phải dán mắt vào báo chí, vào truyền hình để tìm xem lộ trình cúp điện khu vực mình ở là ngày nào ? trong bao lâu ? Nghịch lý là có nhiều chỗ không cần đèn đóm nhưng lại cứ cố gắn thật nhiều bóng đèn cao áp để chúng hút hết điện của người nghèo.

Cơn sốt điện đến thì các đại gia đâu có bận tâm vì lẽ nhà của các đại gia có máy phát điện riêng. Khổ vẫn là khổ cho người nghèo phải sống trong âm thầm và u tối giữa “con rồng Châu Á” đang vươn mình khắp Năm Châu. Con nhà nghèo lại tiếp tục chong đèn giữa đêm khuya để cào cào vài con chữ. Con đại gia lại cứ tiếp tục trong căn biệt thự máy lạnh ấm êm để lo cho ngày xuất ngoại chu du.

“SỐT GẠO” :

Cách đây non một tuần lễ, chẳng hiểu vì sao anh chàng gạo cũng đòi lên cơn sốt. Không biết nguồn tin bắt nguồn từ đâu nhưng rõ ràng là thấy nhà nhà đi mua gạo, người người đi mua gạo về trữ. Sốt đến độ các siêu thị phải khuyến cáo : “Mỗi khách hàng chỉ được mua 10 ký gạo !”.

Cơn sốt gạo dẫu rằng đã qua đi nhưng lại để lại trong lòng người nghèo một nỗi buồn man mát. Các đại gia, các nhà đầu cơ tích trữ thì lại vui lên vì sau cái cơn sốt gạo này ta hốt vào được một mớ khá lớn !

Chuyện hài ra nước mắt là nước nhà là một nước nông nghiệp và tạm gọi là có “số” trong những nước có chỉ số xuất khẩu gạo đứng trong hàng “top-ten” của thế giới. Xuất khẩu gạo để tạo ra những cơn sốt gạo ! Có nên chăng ?

Đất, xăng dầu, điện, gạo ... là những nhu cầu hết sức thiết thực trong đời sống con người. Vậy mà giá cả của nó cứ nhảy vũ điệu Lambađa. Và rồi sau những vũ điệu Lambađa đấy nó đã để lại một hậu quả không nhỏ cho người nghèo.

Không hiểu vô tình hay cố ý mà những cơn sốt đấy nó cứ mãi rình rập người nghèo.

Sau một đêm thức giấc bỗng dưng giá đất, giá gạo, giá gaz bỗng dưng cao ngất.

Người giàu vẫn vui cười thong thả trước những cơn sốt của thời đại, người nghèo vẫn âm thầm lầm lũi bươn chải cơm này ba bữa trước những cơn sốt của cuộc đời.

Anmai, C.Ss.R.

Mục lục

 

 

CÂU CHUYỆN SUY NGẪM

 

Tham ăn


Ngày xưa, ở vương quốc Thái Lan, có một ngôi chùa rất lớn và đẹp, trụ trì ngôi chùa này là một ông sư còn trẻ nhưng lại nổi tiếng tham lam và ích kỷ.



Không biết ai đã đưa ông vào ngôi chùa này mặc dù đức hạnh ông ta không hề có. Trong sân chùa này có một cây táo rất sai quả, quả nào quả nấy to bằng nửa nắm tay người lớn và trái rất ngọt. Đến mùa quả chín nhà sư chỉ cho phép một mình được hái táo vì ông ta chỉ nghĩ đến bản thân mình mà thôi. Ngay cả những sư khác trong chùa cũng không được đụng tới.


Trong vùng có hai người nông dân nghe tiếng ông sư này tham lam liền tìm cách lừa ông ta một vố để dạy cho ông một bài học. Một trong số hai người liền tìm đến chùa ra mắt vị sư tham lam nọ và hỏi xin ít táo. Nhà sư nói:


- Không được, những táo này chỉ dành cho ta thôi. Không ai được hái đâu.


Người nông dân nài nỉ mãi nhưng nhà sư nhất quyết không cho. Cuối cùng, anh nông dân nói:


- Ông chưa hiểu ý tôi. Tôi sang mời ông chiều nay đến nhà tôi để ăn thịt hươu. Tôi xin ít quả táo để nướng chung với thịt hươu.


- Thế sao anh không nói ngay từ đầu? – Nhà sư thốt lên, mắt nhìn xung quanh xem có ai thấy không rồi tiếp – Anh cứ hái đi, cần bao nhiêu cứ hái. Trông vẻ mặt nhà sư lúc này rạng rỡ hẳn lên, không còn cau có như lúc đầu nữa.


Thấy đã trúng kế, anh nông dân mỉm cười đắc ý. Thế rồi nhà sư dẫn anh nông dân ra chỗ cây táo và cùng anh ta hái một túi đầy. Vừa hái táo nhà sư vừa hỏi về bữa thịt hươu sắp tới với vẻ mặt của một người sắp được đánh chén. Còn anh nông dân thì luôn miệng ca ngợi món thịt hươu nướng của mình.


Sau khi hái đầy bao táo, người nông dân cáo từ và hẹn chiều gặp lại.


Anh ta về được một lúc thì có một người nông dân khác vào xin táo và cũng bị nhà sư từ chối như anh nông dân lúc nãy. Nhà sư nghĩ: “Ta dại gì cho hắn, cho tên kia thì còn được mời đến ăn thịt hươu chứ cho tên này thì ta mất không, chẳng được lợi lộc gì?”. Nghĩ vậy nhà sư lắc đầu nguầy nguậy nhất định không cho.


Biết tẩy của anh ta, anh nông dân nói:


- Tôi đến mời ông đi ăn thịt gà, nhân tiện xin ông ít quả táo hầm với gà cho ngon. Bữa tiệc này chỉ có tôi và ông thôi, chớ ngại.


Nghe xong nhà sư mừng lắm, định bụng hôm nay sẽ được chén một bữa no nê thịt hươu và thịt gà. Nhưng ông đâu có biết sa vào bẫy của hai người kia. Thấy nhà sư im lặng, người kia nói:


- Ông thấy thế nào? Hay ông không thích ăn thịt gà của tôi?


Nhà sư vội vã đáp:


- Không phải, không phải, tôi rất vui lòng nhận lời mời của anh bạn. À mà nhà ông bạn ở đâu?


Anh nông dân đáp:


- Chỉ ở cuối xóm này thôi.



Tuy miệng hỏi vui vẻ như vậy nhưng trong đầu của nhà sư đã hình dung một con gà béo tròn đặt lên đĩa còn đang bốc khói nghi ngút. Và tất nhiên anh đựơc nhà sư mời ra sân và cho hái quả thoải mái trên cây táo đã nổi tiếng là "bất khả xâm phạm" của mình. Sau khi đã hái đầy một bịch táo, anh nông dân chào nhà sư ra về dưới con mắt ngạc nhiên của các chú tiểu trong chùa. Từ đó trước tới nay họ chưa bao giờ thấy nhà sư của mình cho ai nhiều táo như vậy.


Chiều đến hai anh nông dân cùng đến ngôi chùa nọ để mời nhà sư đi ăn tiệc. Họ gặp nhà sư và như đã bàn tính trước, một trong hai anh nông dân nói:


- Bây giờ sư ông đến nhà tôi trước, nhà tôi ở gần ngay đây thôi.


Người thứ hai phản đối:


- Không được! Đến nhà tôi trước vì cả nhà đang đợi.


Không ai nhường ai họ cãi nhau ỏm tỏi khiến nhà sư phải lên tiếng:


- Thôi thôi, được rồi, tôi sẽ đi với cả hai vị.


Hai người nông dân nháy mắt với nhau, họ đưa nhà sư đi lòng vòng khắp nơi, được một lúc mỏi chân quá, nhà sư nói:


- Đã đến chưa mà sao đi mãi vậy?


Hai người nông dân đồng thanh đáp:


- Sắp tới rồi, ông ráng lên, chỉ còn một đoạn nữa thôi.


Hai anh nông dân đáp trấn an nhà sư. Mãi đến lúc này nhà sư nọ vẫn chưa biết mình bị hai người đàn ông kia lừa.


Đến chiều nọ họ đã tới làng, đi một đỗi nữa đến ngã ba, một trong hai người nắm tay kéo nhà sư vào con đường phía bên trái và nói:


- Đã đến nhà tôi rồi, xin ông hãy qua nhà tôi trước, đánh chén xong hãy qua nhà ông kia.


Người kia đâu có chịu bèn chạy lại nói:


- Đâu có được, chính tôi mời ông qua nhà tôi trước.


Thế là họ cãi nhau. Còn nhà sư không biết phải đi theo ai trước nên chỉ biết phải im lặng.


Cãi nhau chán mỗi người bèn tóm một tay của nhà sư mà kéo về phía mình. Vừa kéo họ vừa chửi bới nhau cho đến lúc nhà sư không chịu nổi nữa phải thốt lên:


- Hãy để tôi yên! Tôi chẳng đến nhà ai cả, buông tôi ra!


Đến lúc này hai người mới buông tha nhà sư ra. Bây giờ ông ta đã quá mệt, vừa chẳng ăn đựơc gì, lại vừa phải nghe tiếng chửi rủa suốt buổi của hai người nông dân.


Nhà sư chẳng nói chẳng rằng, bỏ đi một mạch về với vẻ mặt mệt mỏi xen lẫn thất vọng vì hụt bữa ăn ngon, và ông ta cũng chưa biết rằng mình bị chơi một vố đau. Đợi cho nhà sư đi rồi, hai anh nông dân nhìn nhau cười đắc ý. Về phần nhà sư, ông không những mất một số táo đáng kể mà còn chẳng ăn được gì. Đúng là tham thì thâm!

Hoàng Vũ sưu tầm

Mục lục

SỐNG CHỨNG NHÂN

 

CHẤP NHẬN CHẾT ĐỂ CỨU SỐNG CON

Thiệp báo tin Maria Cristina Cella Mocellin qua đời không mang màu đen tang chế nhưng được viền màu xanh hy vọng của cây cỏ tươi. Chính giữa nổi bật cánh hoa hồng, đọng những giọt sương mai lóng lánh. Bên trong là di ảnh của Cristina Cella, tươi trẻ, duyên dáng và lộng lẫy trong chiếc áo ngày cưới. Bên dưới bức ảnh là lời nguyện trích từ nhật ký của Cristina lúc còn thiếu nữ:

- Lạy Cha, xin dâng Cha niềm vui của con như ca khúc chúc tụng Cha, trái tim con như căn nhà tiếp đón Cha và cuộc đời con để Cha thực hiện điều Cha muốn.

Và .. cuộc đời Cristina kết thúc vào năm 26 tuổi. Chiếc bướu ung thư ác tính nơi tử cung mắc phải năm 18 tuổi, tưởng đã chữa lành, nào ngờ tái xuất hiện. Nàng đã có hai con một trai một gái. Francesco lên 4 và Lucia lên 2. Cristina đang đợi đứa con thứ ba. Khi vị bác sĩ báo hung tin:

- Cristina, tôi rất tiếc phải cho bà biết chứng ung thư quái ác tái xuất hiện!

Cristina im lặng một giây. Lấy lại bình tĩnh nàng nhìn thẳng vào mắt vị bác sĩ và nói:

- Tôi đang có thai. Tôi đang mang thai, bác sĩ ạ!

Vị bác sĩ hiểu ngay. Ông không dám đề nghị với nàng lối trị liệu hóa học, vì như thế có nghĩa là giết chết bào thai!

Bà Maria Cristina sinh hạ Riccardo vào tháng 8 năm 1994. Ngay sau đó, nàng bắt đầu các phương pháp trị liệu hóa học, nhưng quá trễ, bướu ung thư đã ăn sâu nơi nội tạng. Người Mẹ trẻ anh dũng êm ái trút hơi thở cuối cùng ngày 22-10-1995, để lại 3 con thơ.

Bé Riccardo trông thật kháu khỉnh, vui tươi và hồn nhiên .. Cậu bé có mái tóc vàng óng ả và đôi mắt trong xanh. Cậu bé ít được hồng phúc sống cạnh Mẹ vì bà Maria Cristina thường xuyên ra vào bệnh viện hoặc phải ở lại bệnh viện lâu ngày. Nhưng bé Riccardo không quên khuôn mặt dịu hiền của Mẹ. Đầu tháng 12 năm 1995, báo chí và đài truyền hình Ý gợi lại cuộc đời của bà Maria Cristina Cella như một mẫu gương anh dũng, chấp nhận chết để cứu sống bào thai trong dạ. Khi hình bà Maria Cristina xuất hiện trên màn ảnh, bé Riccardo reo vui giơ tay đòi ẵm:

- Má .. Má ẵm .. Má ẵm con!

Năm đó bé Lucia lên 3 tuổi. Lucia thắc mắc hỏi anh:

- Sao lâu quá không thấy Má về? Bộ Má vẫn còn đau sao?

Francesco lên 5 tuổi giải thích với em:

- Má đang ở trên Trời. Đức Chúa GIÊSU đem Má về Trời với Chúa.

Lucia lại hỏi:

- Sao Đức Chúa GIÊSU không để Má về đây với mình? Chúa phải để Má ở đây với mình chớ!

Ông Carlo Mocellin lẳng lặng nghe hai đứa con nhỏ nói chuyện. Giờ ông lên tiếng giải thích. Ông nói với Lucia:

- Nhưng Má đang ở với chúng ta mà. Nếu con cất tiếng gọi Má, Má sẽ nghe tiếng con và đến với con, bên cạnh con. Rồi một ngày, tất cả chúng ta sẽ lên Trời ở với Má.

Sau đám tang, Riccardo và Lucia - hai đứa nhỏ nhất - về ở với ông bà ngoại Giuseppe và Caterina CELLA. Ông bà sống tại Cinisello, gần Milano (Bắc Ý), nơi căn nhà Maria Cristina sinh ra và lớn lên cho đến khi lập gia đình vào năm 1991. Còn Francesco thì sống với thân phụ ở Carpanè, thuộc tỉnh Vicenza, cách Milano khoảng hơn 200 cây số. Ông Carlo MOCELLIN làm việc tại đây. Cứ mỗi chiều thứ sáu, hai cha con Carlo và Francesco lại về nhà ông bà ngoại, và như thế, cả gia đình đoàn tụ vào cuối tuần.

Bà ngoại Caterina Cella giải thích:

- Chính Maria Cristina ước muốn như thế. Trước khi lìa đời, Cristina thưa với tôi: ”Xin Má giúp Carlo. Xin Má chăm sóc Riccardo và Lucia. Rồi khi nào có thể, xin Má cố gắng giúp cả bốn cha con đoàn tụ” .. Do đó chúng tôi mang hai bé Riccardo và Lucia về đây. Đôi khi chúng tôi lo lắng tự hỏi: Liệu mình có chu toàn bổn phận giáo dục các cháu được không? Vì chúng tôi là ông bà ngoại rồi, mặc dầu chúng tôi vẫn còn trẻ. Cha Mẹ lại là chuyện khác!

Nhưng Carlo Mocellin - góa vợ ở lứa tuổi 30 - âu yếm trấn an Cha Mẹ vợ:

- Xin Cha Mẹ an tâm. Điều quan trọng là Cha Mẹ hết lòng yêu thương chăm sóc các cháu. Còn lại là chi tiết phụ. THIÊN CHÚA ở với chúng ta. Ngài sẽ lo liệu mọi sự. Chính Cristina đã dạy chúng ta như thế.

Carlo Mocellin tỏ ra thật can đảm, xứng đáng với người vợ trẻ anh dũng quá cố. Mặc dầu thương nhớ vợ tha thiết, Carlo luôn giữ thái độ sáng suốt, điềm tĩnh. Chàng tâm sự:

- Chính Cristina đã chu đáo chuẩn bị tinh thần và sức mạnh cho chúng tôi, để chúng tôi can đảm tiếp tục cuộc hành trình vắng bóng nàng. Chính Cristina đã lôi kéo, thu hút chúng tôi cùng đi vào con đường Đức Tin tuyệt vời của nàng. Khi chúng tôi quen nhau, nàng mới bước vào tuổi trưởng thành. Nàng đến nghỉ hè nơi nhà ông bà ngoại ở Veneto và đang muốn chọn cuộc sống tu trì. Cuộc gặp gỡ với tôi đã làm nàng lo âu lúng túng. Nàng ghi trong nhật ký: ”Lạy Chúa, sao Chúa lại để con rơi vào nỗi nghi ngờ? Sao Chúa lại thử thách con khi đưa Carlo đến với con?” Nhưng rồi nàng nhận ra: tất cả những gì xảy đến trong cuộc đời, không phải là chuyện ngẫu nhiên, nhưng đều do Bàn Tay Quan Phòng THIÊN CHÚA xếp đặt.

Phần tôi - Carlo nói tiếp - tôi khác xa nàng. Đức Tin của tôi chỉ hời hợt chứ không sâu xa như nàng. Nhưng ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên, tôi nhận ra nàng chính là ý-trung-nhân của lòng tôi, là người phụ nữ tôi tìm kiếm. Nơi nàng tỏa ra một thứ ánh sáng đặc biệt, một nét tươi vui mà tôi chưa gặp nơi một người nào khác. Tôi có thể nói được rằng, chính Cristina đã hoán cải tôi. Nhờ đó mà giờ đây tôi mới có thể điềm tĩnh, bình an chấp nhận thử thách. Dĩ nhiên tôi thương nhớ nàng vô cùng. Nhưng tôi xác tín rằng, một ngày kia, chúng tôi sẽ gặp lại nhau, cùng với các con của chúng tôi. Chúng tôi sẽ sum họp mãi mãi.

Đúng một tháng trước khi lìa trần, Maria Cristina Cella Mocellin viết để lại cho đứa con trai Riccardo bức thư sau đây:

Riccardo yêu quý, con là một hồng ân.

Riccardo con yêu, con nên biết rằng con không có mặt trên cõi đời này vì tình cờ. Chính THIÊN CHÚA muốn con sinh ra, mặc cho bao vấn đề khó khăn.

Con sẽ hiểu rằng, thật ra Ba Mẹ chưa nghĩ đến chuyện có thêm một đứa con khác, vì Francesco và Lucia còn nhỏ tuổi. Nhưng khi Ba Mẹ biết rằng con đã đến, thì Ba Mẹ yêu thương con và mong muốn con với trọn sức lực.

Mẹ nhớ như in ngày vị bác sĩ nói với Mẹ rằng, cuộc chẩn bệnh cho thấy Mẹ lại bị ung thư nơi tử cung. Phản ứng của Mẹ là lập đi lập lại: ”Tôi đang có thai. Tôi đang mang thai. Nhưng mà tôi đang có thai, bác sĩ ạ!” Để vượt thắng nỗi lo sợ lúc bấy giờ, Mẹ được ban cho sức mạnh khác thường là ước muốn có con. Mẹ mạnh mẽ chống đối việc khai trừ con, mạnh đến nỗi vị bác sĩ hiểu ngay và không nói thêm gì cả.

Riccardo, con là một hồng ân cho Ba Mẹ.

Buổi chiều hôm đó, ngồi trên xe từ bệnh viện trở về, khi con chuyển động lần đầu trong bụng Mẹ, con như nói với Mẹ rằng: Cám ơn Mẹ nhé, vì Mẹ đã yêu thương con!

Nhưng làm sao mà không yêu con được? Con thật quý hóa và khi Mẹ nhìn con và Mẹ thấy con xinh đẹp, liếng thoắng và dễ thương như thế này .. thì Mẹ thầm nghĩ: ”Trên đời, quả đáng chịu đau khổ để có được một đứa con!” THIÊN CHÚA đổ tràn niềm vui khi ban cho Ba Mẹ ba đứa con xinh xắn mà - nếu Chúa muốn - Ngài sẽ ban ơn cho chúng được lớn lên theo đúng ý Ngài.

Mẹ chỉ biết cám ơn Chúa đã ban cho Ba Mẹ hồng ân lớn lao là có được ba đứa con.

Chỉ mình THIÊN CHÚA biết rõ rằng Ba Mẹ mong muốn có những đứa con khác, nhưng lúc này, lại là chuyện không thể được.

Con xin tạ ơn Chúa.

Cristina.
24 tháng 9 năm 1995.

Viết tại Nhà thương Marostica.

Nhắc lại nghĩa cử hy sinh anh hùng của bà mẹ trẻ Maria Cristina Cella Mocellin, nhân hôm nay 28-4: lễ nhớ thánh nữ Gianna Beretta Molla (1922-1962), nữ bác sĩ và là bà mẹ gia đình người Ý.

Khi mang thai đứa con thứ tư, nữ bác sĩ Gianna Beretta Molla khám phá ra mình mang chứng bệnh trầm trọng đe dọa mạng sống cả hai mẹ con. Nhưng thánh nữ không do dự một giây. Luôn đặt trọn niềm tin tưởng nơi THIÊN CHÚA Quan Phòng, thánh nữ sẵn sàng dâng hiến mạng sống để cứu bào thai đang mang trong dạ. Thánh nữ Gianna Beretta Molla quyết liệt nói với các bác sĩ:

- Nếu quí vị phải so-đo chọn lựa giữa tôi và đứa bé, thì xin đừng chần-chờ do-dự, hãy cứu sống đứa bé, vì tôi muốn và đòi hỏi như vậy!

Sáng ngày 21-4-1962 nữ bác sĩ Gianna Beretta Molla cho ra chào đời một bé gái với tên gọi Gianna Emanuela. Vỏn vẹn một tuần sau, mặc dầu được chữa trị khẩn trương và phải đau đớn vô bờ, nữ bác sĩ Gianna Beretta Molla êm ái trút hơi thở cuối cùng sau khi tha thiết lập đi lập lại: ”Lạy Đức Chúa GIÊSU, con yêu mến Ngài”. Hôm ấy là ngày 28-4-1962, nữ bác sĩ Gianna Beretta Molla hưởng dương 40 tuổi.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II (1978-2005) đã tôn phong nữ bác sĩ Gianna Beretta Molla - bà mẹ gia đình - lên hàng chân phước ngày 24-4-1994 trong bối cảnh Năm Quốc Tế Gia Đình. Và ngày 16-5-2004 cũng chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II nâng nữ bác sĩ lên hàng hiển thánh và tuyên bố 28-4 là ngày kính nhớ thánh nữ Gianna Beretta Molla.

Hiện nay ái nữ Gianna Emanuela - 46 tuổi - hành nghề bác sĩ nối nghiệp hiền mẫu đáng kính, người đã sẵn sàng dâng hiến mạng sống để cứu con thoát chết.

... ”Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy” (Gioan 15,12-14).


 

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Mục lục

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

Người cha đang ở đâu

Cuộc sống hiện đại đang đẩy người cha ra khỏi gia đình nhiều hơn. Hoặc chính họ tự đẩy mình ra khỏi mái nhà nơi không chỉ có người vợ đang mong chờ

Có rất nhiều đàn ông than phiền một ngày 24 giờ đối với họ không bao giờ là đủ. Họ mặc nhiên “chi” 8 giờ hoặc hơn thế cho công việc ở sở làm, và sau đó hào phóng vài ba giờ nữa ở những nơi “trà dư tửu hậu” mà đến 90% trong số họ trả lời rằng đó là vì “công việc”. Chị M. - một bà nội trợ đảm đang hiện ngụ tại quận 5- TPHCM - thở dài: “Rất ít khi anh ấy có mặt ở nhà trước 22 giờ. Mà dù có mặt ở nhà, anh ấy cũng thường không hỏi han gì đến con cái mà lại vùi đầu vào cái máy vi tính. Hỏi thì anh ấy bảo phải làm báo cáo”.

Tìm cha nơi công sở

Vì điều này, có không ít đứa trẻ chỉ thấy mặt cha vào lúc sáng sớm khi ông đưa chúng đến trường. Thời gian ngắn ngủi ấy cũng chỉ để dành cho ông bố tập trung chạy xe trên con đường mà dòng người nối nhau ồ ạt. Những câu hỏi, hay thắc mắc của những đứa con sẽ được “xếp xó” trong chiếc khẩu trang bịt miệng mà có lẽ chúng sẽ tự trả lời với nhau, hoặc đem đi hỏi cô giáo.

Người cha, theo quan niệm về gia đình truyền thống, đó là trụ cột trong gia đình. Người cha khi đó phải làm việc bên ngoài để có thu nhập nuôi sống gia đình. Người vợ sẽ ở nhà để đảm đương vai trò nội trợ và nuôi dạy con cái. Vì thế, những đứa con của một gia đình truyền thống sẽ phản ánh đúng những điều được giáo dục từ người mẹ, cô giáo. Chúng chỉ biết đến người cha qua những trận đòn roi hay trách phạt mà có lẽ chúng cũng không muốn gặp một người cha như thế.

Cũng có không ít những đứa trẻ chỉ giao tiếp với cha mình qua... điện thoại – phương tiện liên lạc đồng thời được xem là thứ để quản lý con cái. Nhưng chúng cũng biết rằng không thể gọi điện cho cha trong giờ “hành chính” vì chắc cha đang bận. Cho nên, thay vì gọi cho cha để hỏi han này nọ, chúng sẽ chọn cho mình một phương pháp dễ chịu khác: gọi cho tổng đài tư vấn! Người cha khi đó lại càng mờ nhạt hơn trong vai trò của mình.

Con trai tìm chính mình ở người cha

Theo các nhà tình dục học, giới tính cơ bản của con người là tính nữ. Từ lúc còn ở dạng bào thai được nuôi dưỡng trong tử cung, đứa trẻ khi sinh ra lại luôn ở bên cạnh bầu vú của người mẹ. Hơn ai hết, đứa trẻ cần một “định hướng giới tính” rõ ràng từ người cha, để nó không vô tình đi “nhầm đường”. X. M, nhân viên văn phòng, tâm sự: “Con trai tôi may mắn được bố nó yêu lắm. Suốt ngày bày trò cho nó chơi xe hơi với đá bóng, cu cậu cứng cáp lên thấy rõ”.

Có một số phụ nữ đã cảm thấy mình sai lầm khi mong muốn có một đứa con gái nhưng lại sinh con trai. Và thế là đứa con trai được người mẹ cho ăn mặc như một cô công chúa, chơi các trò chơi nhẹ nhàng của con gái. Cũng không thể đổ hết lỗi cho người mẹ nếu như người cha không vắng mặt nhiều đến thế. Khi vai trò định hướng và làm hình mẫu cho đứa con trai ở người cha bị lược bỏ đi, đứa trẻ sẽ phát triển rất khó khăn, như một người không biết mình nhìn ra sao nếu không được soi vào gương.

Bên cạnh đó, trong giai đoạn dậy thì, đứa trẻ đặc biệt cần sự có mặt của người cha để giải đáp những “thắc mắc biết hỏi ai” của chúng. Người cha khi đó cần hết sức tế nhị và không nên tránh né những nhu cầu được chia sẻ của con mình. Đứa trẻ sẽ cảm thấy an tâm hơn với “giấc mộng ướt” đầu tiên nếu người cha cho nó biết đó chỉ là biểu hiện bình thường của việc cậu đang dậy thì và phát triển sinh dục. Như thế, người cha còn cần trang bị cho mình một kiến thức vững vàng và cả một “bản lĩnh” để trò chuyện với con cái về giới tính.

Ngoài ra, chính sự trải nghiệm của người cha sẽ dạy cho con cái về những chuẩn mực thực tế của cuộc sống, những điều mà rất ít thấy trong trường học. Khi cuộc sống đang ngày trở nên hỗn độn với một số giá trị bị đảo lộn, vai trò của người cha lại càng trở nên quan trọng hơn trong việc dẫn dắt và trang bị cho những đứa con cách quan sát và ứng xử với cuộc sống quanh mình. Xin đừng bao giờ để hình ảnh đứa con ngơ ngác hỏi mẹ: “Cha con đang ở đâu”?

VŨ BÙI

www.nld.com.vn

Mục lục

 

 

Giáo Dục Giới Tính

Tương quan giữa MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI VÀ GIÁO HỘI

 

Xã hội chúng ta đang trên đường sung túc, cuộc sống trở nên tiện nghi, thoải mái, xu hướng tiêu thụ và hưởng thụ… cũng trên đà leo thang! Mặt trái của nó là lo âu, là tìm việc, là tất bật kiếm tiền, là chán nản và cô đơn… là tìm quên…

 

Lớp thanh thiếu niên đang mang nhiều nỗi bận tâm, về phương diện tích cực lẫn tiêu cực, tạo cho giới trẻ nhiều sự căng thẳng… Một số lớn thanh thiếu niên thích những chuyện thử nghiệm, thử nghiệm về khoa học, kỹ thuật… nhưng thử nghiệm về tình dục cũng không ít… Phải, giới trẻ ngày nay có và biết nhiều thứ hơn thế hệ trước, nhưng thử hỏi phần học làm người có tiến hơn lớp người đi trước không? Có lẽ câu trả lời sẽ làm một số cha mẹ hay các nhà giáo dục phải ngại ngùng. Đây có thể là một trong những nguyên nhân khiến cho một số trẻ ngày nay dễ hư hỏng, mất định hướng và có khi dấn thân vào những chuyện liều lĩnh mà không ý thức.

 

Rất đông phụ huynh lo ngại là thanh niên nam nữ ngày nay có nhiều quan hệ và dấn thân quá sớm về mặt tình dục . Và chúng đã không được chuẩn bị . Hậu quả đương nhiên là tình trạng phá, hút, nạo thai hoặc làm mẹ, làm bố bất đắc dĩ hay nguy hơn nữa là nạn tự vẫn, vì thấy đời mình bế tắc… Báo chí nói nhiều và tình hình dường như đến mức báo động đối với lứa tuổi dưới 20 hay nói chung là lứa tuổi học trò.

 

Đâu là nguyên nhân của thực trạng này?

 

Chắc chắn không thiếu lý do để cắt nghĩa về sự kiện cụ thể và đau lòng này. Nhưng nội dung bài hôm nay chỉ xin đề cập một góc độ của vấn đề, đó là sự khủng hoảng đạo đức trong xã hội.

 

Truyền thông đại chúng phát triển, kinh tế thời mở cửa mang lại sự sung túc cho một số gia đình. Nhưng cũng đồng thời mỡ cửa cho những “luồng gió độc” ùa vào gây nhiều sự ngộ độc cho giới trẻ. Cùng với những văn minh kỹ thuật, văn hóa đồi trụy, phim ảnh, sách báo… đã len vào và gây ô nhiễm cho xã hội chúng ta không ít. Thêm vào đó những cuộc thi thời trang, người mẫu, hoa hậu (hoa học đường)… đã làm cho tính đơn sơ, hồn nhiên sớm giã từ một số lớn con em tuổi thanh thiếu niên. Hành vi bạo lực, tự do hay nói đúng hơn sự thiếu kỹ luật, thiếu chăm lo nền tảng trong gia đình đã không tạo cho con em sức đề kháng cần thiết. Cuộc sống tuổi trẻ dễ bị chao đảo vì thực tế này. Internet là phương tiện học hỏi nhưng cũng là đường tắt đưa con em đến việc khám phá về giới, về tình dục, tạo sự tò mò, thử nghiệm thiếu lành mạnh và tệ hại. Xin quý phụ huynh tỉnh thức canh chừng môi trường xã hội! Sự hưởng thụ, nhu cầu mua sắm tăng, cạnh tranh, chạy đua theo hàng mẫu, cùng các phương tiện “thời thượng” đã làm các em bị phân tán năng lực. Đối với một số con em, việc học không phải là trọng điểm mà là xe cộ, máy móc, áo quần – Những độc tố này đã và đang len vào giới trẻ rất nhanh. Nếu không có nền tảng đạo đức và sự trưởng thành, nhiều con em và ngay cả gia đình đã, đang và sẽ bị đe dọa.

 

Các bặc phụ huynh lo ăn lo làm. Nghèo thì vất vả để kiếm sống, không đủ thì giờ để chăm lo cho con. Giàu thì mong giàu hơn, sang hơn, tiện nghi hơn… còn đâu thì giờ mà gần gủi hỏi han dạy bảo con?... Thành công là đích điểm của nhiều phụ huynh và các bạn trẻ. Thành nhân dường như là một cái gì còn rất trừu tượng xa xôi/

 

Một số phụ huynh chỉ mong sao cho con mình có được những điều trước đây mình ước mơ mà không có hoặc chưa được. Vô tình vì thương con, nhiều phụ huynh muốn cho con được hưởng nọ kia, không thua ai … tạo một cuộc sống dễ dãi. Thoạt trông đúng là phụ huynh làm mọi sự vì thương con. Nhưng nhìn sâu hơn một chút, có khi lại làm cho con em mất cảm quan về những giá trị của sự kiềm chế, của ý chí vượt khó… Nhiều phụ huynh đã vô tình biến con em thành “dụng cụ” để thực hiện ước mơ của chính mình, hoặc để làm “đẹp mặt” mình, việc học hành của con em đôi khi là một loại cạnh tranh, hay khoe khoang của người lớn. Một số con em không sống cho mình, mà đang đáp ứng ước mong của bố mẹ, hay có khi cả ông bà nữa! Học học, tiền tiền, nhà nhà, xe xe… Có tiền và có tiếng…

 

Nhà trường dường như chú trọng quá nhiều đến chữ nghĩa, kiến thức. Mục tiêu của trường có lẽ là dạy giỏi, đậu nhiều… chứ chưa chú trọng đến việc dạy trẻ “làm người”, thậm chí có nhiều con em không ngại dùng những phương thế gian xảo để được điểm cao, để bố mẹ vui lòng nữa… Tôn ti trật tự ở nhiều trường hợp có vẻ như là một loại “xa xỉ” đối với một số bạn trẻ.

 

Xã hội thì bận chạy theo đà tiến của thời đại. Còn thanh thiếu niên chúng ta đi vào xã hội này với bao ngỡ ngàng, choáng ngợp vì không được chuẩn bị. Nhiều con em quý vị lớn lên vào đời và vào luôn với nếp sống “bụi đời”, có nghĩa là đời bây giờ lắm “bụi”. Bụi của một xã hội được thấy rõ nét qua nhiều hiện tượng tiêu cực. Ví dụ: không ít người bắt chẹt nhau, miễn sao kiếm được nhiều tiền, hoặc tìm lợi lộc cho riêng mình, bất kể sự nguy hại hay thiệt thòi cho người khác. Chính thái độ này cũng được thể hiện qua đời sống giới tính và tương quan tình cảm, tình dục nữa. Xã hội dường như đang xao lãng việc xây đắp và gìn giữ giá trị, uy tín, phẩm chất… Bụi của gương mù gương xấu, bụi bên tai, bụi trong mắt (truyền thông, sách vỡ và phim ảnh xấu…) Bụi của ham muốn, của hưởng thụ… Bụi trong tâm hồn… Nói như thế không có nghĩa là xã hội thiếu những gương lành gương tốt, nhưng cái xấu bao giờ cũng dễ lây lan, vì thế vấn đề tạo môi trường cho con em, xây dựng nội lực cho con em, để chúng có đủ chất “đề kháng” mà đối diện với đời. Làm sao cho con em quý vị sống:

 

“Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

 

Không những xã hội chúng ta, mà cả trời Au trời Mỹ… hay trời Đông đều cũng có những mối quan ngại như nhau về giới trẻ, về sự phát triển và đời sống tình dục của chúng. Từ nhiều năm nay, vấn đề giáo dục giới tính / tình dục ở nước ta đã là mối lo nghĩ của các nhà giáo dục và phụ huynh. Nhưng cụ thể thì chúng ta đã làm gì? Chương trình học đã được lồng ghép phần nào, nhưng dường như chưa đúng mức và còn xa với nhu cầu thực tế. Bằng chứng là nhiều bạn trẻ vẫn còn đặt ra những nỗi sợ sệt phi lý hay những câu hỏi ngây ngô như “Hôn nhau thì có thai chưa?” Trái lại một số con em thì đã “rành sáu câu” trong vấn đề này.

 

Đối với một số phụ huynh, vấn đề tính dục được xem là “dơ bẩn” hay “cấm kỵ”, “chuyện người lớn”, vì thế tránh trẻ đề cập đến. Tuy nhiên, có nhiều cách để giáo dục giới tính. Xin quý phụ huynh đừng quên rằng đời sống tình dục được thể hiện như thế nào là qua nhân cách của con người đó. Giúp trẻ phát triển đời sống “làm người” nằm trong trách nhiệm và tầm tay quí vị.

 

Thật vậy, giáo dục giới tính có thể bắt đầu sớm trong gia đình, qua việc lồng ghép trong giáo dục nhân cách. Và chắc chắn gia đình là hạt mầm đầu tiên và cũng là thửa đất trong đó hạt mầm nhân cách phát triển, hạt mầm phát triển như thế nào thì còn tùy vào bản chất của nó cũng như nhờ vào môi trường gia đình: Đó chính là khí, là nước, và là chất lượng của đất. Môi trường xã hội có lẽ là nơi trắc nghiệm phẩm chất giáo dục của gia đình khá chính xác. .

 

 Ngoài ra, giáo dục giới tính và giáo dục tình dục (GDGT và GDTD) có thể nói là một nhu cầu cần thiết để giải độc cho những thông tin sai lệch về giới tính. Nếu chúng ta thụ động ngồi yên thì đường phố và màn hình vẫn đầy dẫy những “bài học” thiếu lành mạnh về vấn đề này rồi.

 

 Chúng ta nhận định về xã hội không phải để phê bình, nhưng để ý thức tầm quan trọng và nhằm tìm phương thế phòng độc hoặc giải độc cho con em là những sinh vật rất mong manh. Kinh nghiệm đầu đời để lại những dấu ấn khó phai trong cuộc sống của trẻ. Cũng như các vận động viên chạy đua, đua xe hay bơi lội… bước khởi động quan trọng như thế nào thì bước vào đời của con em quý vị cũng được xác định ít nhiều do giai đoạn đầu đời này như vậy.

 

Tạo môi trường lành mạnh để hạt mầm tuổi trẻ được lớn lên vững mạnh, đầy sinh lực là việc cần làm ngay của các phụ huynh, nhà giáo và các nhà có trách nhiệm trong xã hội nữa.

 

Một nền giáo dục quân bình chú trọng đến kỷ luật, đến những đòi hỏi, điều này giúp cho con em xây dựng bản thân qua những cố gắng, kiên trì và giúp ý chí thêm vững mạnh qua nỗ lực vượt khó. Chữ hiếu, chữ tình, chữ lễ, chữ nghĩa, chữ nhân, chữ công và nhất là chữ đức... cần được rèn luyện, tập tành ngay từ tấm bé trong gia đình, trong trường học.

 

Một môi trường lành mạnh mà quý phụ huynh cần khuyến khích tối đa cho con em gia nhập và sinh hoạt đều đặn đó là: các hội đoàn, các nhóm, ca đoàn…. Sinh hoạt tập thể là môi trường đào luyện con em trên nhiều lãnh vực. Tuổi thanh thiếu niên thường thích và chịu ảnh hưởng của bạn bè rất nhiều. Trong các đoàn thể, con em quý vị có thể phát triển khả năng tương quan, giúp chúng có những bạn bè lành mạnh, những sinh hoạt vui tươi, những học hỏi giúp tự rèn luyện mình… Các hội đoàn thường mang tính giáo dục cao. Khi thể chất và tinh thần được cuốn hút trong những gì lành mạnh, con em sẽ tránh bớt được những tò mò, giải trí độc hại…

 

Hội đoàn không những là môi trường “phòng bệnh” rất hữu hiệu, mà còn là khung xây dựng nhân cách và cụôc sống lành mạnh cho tuổi thanh thiếu niên rất vững chắc.

 

Tránh xa môi trường tiêu cực và kiến tạo một môi trường tích cực đều nằm trong tiến trình giáo dục con em và cũng là nơi GDGT rất lành mạnh.

 

 

NT  M. Thécla Trần Thị Giồng

TS Tư Vấn Tâm Lý

 

Mục lục

 

 

ĐỌC SÁCH

 

MẦU NHIỆM MÂN CÔI

 

Năm Sự Sáng

 

+ Mầu nhiệm thứ ba

 

Nghe tin Gioan Tẩy Giả bị tống ngục, Đức Giêsu giã từ miền Nam, trở về miền Bắc. Người rao giảng ở Caphácnaum. Dân thương quá, mến quá năn nỉ Chúa ở lại luôn với họ đừng đi đâu nữa. Đồng ý là ở lại thì khoẻ cái thân.

 

Nhưng Chúa quyết tâm đi đến mọi nơi để rao giảng Tin Mừng Nước Trời, vì đó là sứ mệnh Chúa Cha đã trao phó cho Người.

 

Thế là Người ra đi, từ thành thị đến nông thôn, từ miền Bắc xuống niềm Nam, từ vùng người Do Thái  cho tới vùng người ngoại.

 

Chúa kêu gọi mọi người sám hối để vào Nước Trời. Nước Trời ấy không còn giống với luật Môsê nữa. Nước Trời  của Chúa.

 

+ Không kỳ thị dân ngoại như tác giả Thánh Vịnh 7 9 :

 

“ Gốc nho ấy Chúa bứng từ Ai Cập”,

đuổi chư dân đi lấy chỗ mà trồng”.

 

+ Không xua đuổi người tội lỗi như tác giả Thánh Vịnh 100 :

 

“Ngay từ buổi sớm mai con sẽ diệt trừ cho hết phường ác nhân trong xứ, hầu quét sạch khỏi thành đô bọn làm điều ác không xót một tên”.

 

+ Không ném đá người ngoại tình theo luật Môsê, mà chỉ tha thứ và yêu cầu đừng tái phạm.

 

+ Không coi luật là mục tiêu mà chỉ là phương tiện phục vụ con người. Luật vị nhân sinh chứ không phải luật vị luật.

 

+ Bởi luật thanh uế đã mở đường cho Dân Ngoại gia nhập Giáo hội. Mọi đồ ăn đều thanh hết (Mc 7, 19) là con đường rộng thênh thang nối kết Dân Ngoại và Giáo Hội của Chúa.

+ Người nghèo, người bệnh tật là những thành phần được Nước Trời ưu đãi. Họ phải được kính trọng, phải được yêu thương và được nghe loan báo Tin Mừng trước ai hết.

 

+ Yêu Chúa và yêu người không thể được thực hiện riêng rẽ. Không thể yêu Chúa mà không yêu người. Không thể ghét người mà vẫn bảo rằng mình yêu Chúa.

 

+ Nước Trời không thuộc về thế gian này. Quyền và lợi không thể dung hoà được với tinh thần của Nước Trời.

 

Mẹ yêu dấu.Ba năm ròng rã Con của Mẹ chỉ rao giảng bấy nhiêu, chỉ mơ ước có thế thôi. Người đã trả giá cho bấy nhiêu đặc tính của Nước Trời bằng mồ hôi, bằng nước mắt và bằng cả máu nữa. Chính Mẹ cũng chỉ mong được như thế. Và Mẹ cũng đã góp vào sự nghiệp ấy bằng biết bao nhiêu gian khổ.

 

Xin Mẹ cũng dạy chúng con để chúng con cũng chỉ rao giảng bấy nhiêu và thực hành bấy nhiêu. Nếu cầu chúng con cũng sẵn sàng trả giá như Chúa và Đức Mẹ.

 

Mầu nhiệm thứ bốn

 

Chúa đưa ba môn đệ ưu tú là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi để cầu nguyện.

 

Người ta vẫn nghĩ rằng núi ấy là núi Tabo. Bấy giờ người ta lại bảo rằng núi ấy là núi Hermon.

.

Một điều khá khôi hài, đó là Chúa thì cầu nguyện, còn ba ông đệ tử thì nằm ngủ lăn lóc. Thầy thì cao như thế, trò thì thấp như vậy.

 

Môsê và Êlia, đại diện cho Cựu Ước (Luật và Sứ Ngôn) đến để đàm đạo với Chúa về cuộc Thọ Nạn sẽ xảy ra tại Giêrusalem.

 

Bỗng có tiếng từ trời phán “Đây là Con Ta yêu dấu. Các ngươi hãy nghe lời Người”.

 

Chúa Cha dạy cả Môsê và Êlia phải nghe lời Đức Giêsu, bởi lẽ chỉ có mạc khải trọn vẹn trong Đức Giêsu mà thôi. Biết bao giáo huần của Môsê đã được Chúa uốn nắn, sửa chữa.

 

+ Môsê cho ly dị. Chúa Giêsu bảo không được làm vậy.

 

+ Môsê phân biệt đồ ăn thanh và uế. Chúa bảo rằng mọi đồ ăn đều thanh hết.

 

+ Môsê ra lệnh ném đá người ngoại tình. Chúa bảo “Ai sạch tội, thì ném đá trước đi”. Không ai dám, vì chẳng ai vô tội.

 

+ Môsê không cho trị bệnh ngày Sabát. Chúa bảo ngày Sabát cứu người hay diệt người ?

 

Môsê và Êlia rút lui, hàm ý từ này chỉ còn một bậc thầy duy nhất là Đức Giêsu mà thôi.

 

Khi thầy trò từ trên núi đi xuống. Chúa truyền dạy các tông đồ hai điều :

 

-          Không được cho ai biết về cuộc biến hình vinh quang này.

 

-          Chúa công khai cho ba ông biết Người sẽ phải bị loại trừ, bị giết chết. Nhưng ba ngày sau sẽ sống lại.

 

Hai điều dặn dò của Chúa làm nổi bật cái tâm của Người : vinh quang thì giấu đi; đau khổ thì công khai công bố và nhấn mạnh.

 

Thế đấy. Nhưng ba ông Tông đồ vẫn mù tịt chẳng hiểu gì cả. Họ hỏi nhau “ Sống lại từ cõi chết nghĩa là gì ?“. Nhưng cũng may mắn vô cùng, vì họ giữ được bí mật hiển dung mãi cho tới khi Chúa đã phục sinh.

 

Chúa mải mê nói về cuộc thọ nạn thậm chí nội dung trao đổi với hai Sứ ngôn Cựu Ước cũng chỉ là cuộc thọ nạn. Thế mới biết mầu nhiệm Thập giá cao quý biết chừng nào.

 

Mẹ yêu dấu. Xin Mẹ dạy chúng con yêu mến và quý trọng mầu nhiệm Thập giá. Đó là ý của Chúa. Đó là tâm của Chúa  và cũng là tâm – ý của Mẹ.

 

Mầu nhiệm thứ năm

 

Tại nguyện đường Caphácnaum Chúa ngỏ ý muốn lấy chính Thịt Máu của mình để ban sự sống cho nhân loại. Người bị phản đối quá sức, thính giả nhao nhao với nhau rằng “ tại sao ông ta lại lấy thịt của ông để cho chúng ta ăn?”. Chính các môn đệ của Người cũng bỏ về ném lại phía sau một câu vô lễ đến mức độ không còn tình nghĩa thầy trò nữa. Họ nói “ Lời gì mà chói tai như vậy  ? Ai mà nghe cho nổi !”.

 

Phải thành thật mà nói rằng bài giảng hôm ấy thất bại hoàn toàn và đưa uy tín của Chúa xuống tận vực thẳm. Ai cũng tưởng Chúa sẽ hổ thẹn lắm. Ai ngờ Chúa vẫn cứ tỉnh bơ, quyết tâm bảo vệ ý tưởng của mình cho tới tận cùng. Nhìn nguyện đường đang đông nghẹt người; bỗng trống hơn một cách  trơ trẽn, thế mà Chúa vẫn bất cần, quay sang nói với mười hai đệ tử đang ngơ ngác rằng ; “ Còn anh em, tại sao không bỏ về đi cho rồi ?”.

 

Cái thái độ bất cần ấy của Chúa hé mở một ý nguyện cao siêu lắm, lạ lùng lắm, vượt xa khả năng hiểu biết của người phàm.

 

Phải chờ mãi tới đêm Thứ Năm Tuần Thánh, ý nguyện cao siêu ấy mới được ngỏ bày, mới được thực hiện.

 

Chúa cầm ổ bánh mì, ngước mắt lên trời một cách thật thánh thiện, rồi nhìn về phía anh em Tông đồ, chậm rãi và trang trọng tuyên bố : “Đây là Thân Thể của Thầy sẽ bị nạp vì anh em. Hãy cầm lấy mà ăn”.

 

Bây giờ mới biết ăn Thịt Chúa là thế. Và ăn như thế thì Chúa ở trong ta và ta ở trong Chúa,mãi mãi.

 

Bánh ấy là thịt Chúa thật.Chúa không nói ẩn dụ. Đây là lời trăn trối. Lời trăn trối là lời tâm huyết. Rất thật. Rất tha thiết.

 

Đó là quy luật của tình – yêu nhau thì muốn hai thành một, mãi mãi bên nhau – mẹ yêu con muốn thành một với con để mãi bên nhau. Nhưng chẳng bao giờ mẹ và con ở bên nhau mãi mãi. Cũng vì mẹ là người phàm. Muốn mà chẳng được.

 

Còn Chúa yêu ta muốn ta và Người thành một để mãi mãi bên nhau, thì  Người đã làm được và làm rồi vì Người là Thiên Chúa làm người, là Đấng Toàn Năng.

 

Với tư cách là Đấng Tạo Hóa, Người đã biến cơm thành thịt ta, tóc ta, xương ta…

 

Với tư cách là Thiên Chúa làm người, Người biến ổ thánh mì thành Người để ta ăn “ bánh thánh Thịt ta” ấy, thì Chúa và ta thành một, mãi mãi.

 

Đó là mầu nhiệm của tình yêu. Đo là Thiên Chúa toàn năng trở nên một với loài người thấp hèn. Tuyệt vời và siêu tuyệt vời.

 

Mẹ yêu dấu, xin dạy chúng con biết yêu mến Bí tích Thánh Thể. Xin dạy chúng con biết mình đã được trở nên một với Con của Mẹ. Vinh dự vô cùng.

 

Lm. Piô Ngô Phúc Hậu

Mục lục